Báo động tình trạng học sinh chưa ra lớp, bỏ học - Bài 2: Làm gì để học sinh không bỏ học?

  • Cập nhật: Thứ năm, 10/5/2018 | 8:06:00 AM

YBĐT - Nguyên nhân chủ yếu khiến các em bỏ học là do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; nhiều gia đình chưa quan tâm đến việc học tập của con em; một số học sinh không chịu học dẫn đến học tập yếu, kém không theo kịp chương trình rồi bỏ học và theo bố mẹ, anh chị em đi làm ăn xa.

Một giờ học của cô và trò Trường TH&THCS Xuân Tầm, huyện Văn Yên.
Một giờ học của cô và trò Trường TH&THCS Xuân Tầm, huyện Văn Yên.


Bên cạnh đó, một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), còn phó mặc việc vận động học sinh ra lớp, chống bỏ học cho ngành giáo dục; chưa chủ động trong việc lãnh đạo các chi bộ trực thuộc, các tổ chức chính trị xã hội cấp mình trong việc tuyên truyền, vận động; một số ít đơn vị trường học chưa có các giải pháp hữu hiệu trong công tác tuyên truyền, vận động học sinh đến lớp…

Trong những năm qua, việc huy động học sinh đến trường, lớp và hạn chế tình trạng học sinh bỏ học được các cấp ủy Đảng, chính quyền và ngành GD&ĐT nỗ lực, phối hợp triển khai thực hiện. Nhiều đơn vị đã có những cách làm tích cực, vận dụng nhiều giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, tuy nhiên, học sinh cấp THCS bỏ học vẫn có tỷ lệ cao nhất, học sinh bỏ học nhiều nhất là đầu học kỳ II của năm học và sau tết Nguyên đán.
 
Năm học 2017 - 2018, Phòng GD&ĐT huyện Lục Yên có 50 trường học trực thuộc gồm 19 trường mầm non, 5 trường tiểu học, 6 trường THCS, 20 trường TH&THCS, với quy mô 797 nhóm lớp, 23.601 cháu, học sinh. Trong đó, mầm non: 232 nhóm, lớp với 7.170 cháu; tiểu học: 363 lớp, 9.827 học sinh; THCS: 202 lớp, 6.604 học sinh.
 
Là huyện miền núi với 15/24 xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ lao động đi làm việc ngoài tỉnh cao, số trẻ do bố mẹ đi làm ăn xa gửi con lại cho ông bà chăm sóc, nuôi dưỡng có số lượng nhiều nên chưa quan tâm đến việc học tập của con em. 

Do đó, ảnh hưởng lớn đến công tác vận động học sinh ra lớp, duy trì tỷ lệ trẻ đi học chuyên cần, chất lượng giáo dục và chất lượng phổ cập. Đây là đối tượng bỏ học và có nguy cơ bỏ học cao nhất...
 
Đồng chí Vũ Tô Hoàng - Phó trưởng Phòng GD&ĐT huyện Lục Yên cho biết: "Phòng GD&ĐT huyện Lục Yên đã tích cực tham mưu giúp UBND huyện ban hành các văn bản chỉ đạo chính quyền các xã, thị trấn, các ban, ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân trong việc vận động trẻ trong độ tuổi đến trường, tạo điều kiện cho con em đi học đầy đủ, đặc biệt là ở các xã có đông đồng bào Dao trắng. Xem việc vận động học sinh đến trường, hạn chế tình trạng học sinh bỏ học là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn dân”. 

Còn theo Phòng GD&ĐT huyện Văn Yên, học sinh bỏ học một phần là do theo bố mẹ đi làm ăn xa, còn phần lớn với lý do "không thích đi học”. Với trên 40 trường hợp bỏ học sau tết của huyện Văn Yên năm học 2017 - 2018 chủ yếu là học sinh THCS. 

Đồng chí Phạm Xuân Sơn - Trưởng phòng GD-ĐT huyện cho biết: "Phòng đã tham mưu để huyện chỉ đạo huy động học sinh ra lớp sau tết, đặc biệt là các xã vùng khó khăn. Phòng thành lập các tổ công tác đi đến 100% các trường, những trường có học sinh chưa ra lớp thì trao đổi tìm nguyên nhân và phối hợp để tìm cách đưa học sinh ra lớp. Các xã phối hợp với các trường rất tốt trong việc vận động học sinh ra lớp". 

"Tuy nhiên, có những đặc thù và những trường hợp đặc biệt vẫn còn một số học sinh không ra lớp. Với những trường hợp đi khỏi địa phương mà có địa chỉ, thì cũng phối hợp để vận động học sinh về, học sinh chuyển học tới nơi ở mới, tránh thiệt thòi cho các em học sinh” - Trưởng phòng Sơn nói.
 
 
 
Giáo viên Trường TH&THCS xã Trung Tâm cùng cán bộ xã tới các gia đình để tuyên truyền, vận động học sinh ra lớp.
 
Nguyên nhân của tình trạng học sinh bỏ học còn có phần là do tình trạng sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ra trường không có việc làm, phải đi làm công nhân, lao động phổ thông tại các khu công nghiệp, các thành phố lớn.
 
Qua đó, tác động không nhỏ đến tư tưởng, làm giảm động lực học tập của nhiều học sinh. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác GD&ĐT, còn phó mặc việc vận động học sinh ra lớp, chống bỏ học cho ngành giáo dục; chưa chủ động trong việc lãnh đạo các chi bộ trực thuộc, các tổ chức chính trị xã hội cấp mình trong việc tuyên truyền, vận động; một số ít đơn vị trường học chưa có các giải pháp hữu hiệu trong công tác tuyên truyền, vận động học sinh đến lớp.

Tăng cường công tác vận động học sinh đến trường, ngăn chặn tình trạng học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, giữ vững phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS trên địa bàn tỉnh, hàng năm, Sở GD&ĐT cần tăng cường chỉ đạo các phòng GD&ĐT chủ động tham mưu với chính quyền địa phương đưa các chỉ tiêu phát triển GD&ĐT vào nghị quyết của địa phương để tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện. 

Các phòng GD&ĐT chỉ đạo các trường tăng cường tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phát triển giáo dục. Nắm chắc tình hình học sinh bỏ học hoặc có nguy cơ bỏ học để có biện pháp ngăn chặn kịp thời; chỉ đạo các nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch dạy bù chương trình cho những học sinh không chuyên cần, tranh thủ phụ đạo học sinh có học lực yếu kém để bù đắp lượng kiến thức bị rỗng để học sinh tự tin hơn trong học tập.

Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục kỹ năng sống nhằm thu hút học sinh đến trường. Đẩy mạnh phong trào tương thân, tương ái, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức, đoàn thể giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, hạn chế tối đa số học sinh bỏ học vì lý do kinh tế.
 
Đặc biệt, bên cạnh huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị địa phương, lãnh đạo Sở GD&ĐT, các phòng chuyên môn của Sở cần thẳng thắn, không giấu giếm và thể hiện trách nhiệm của mình rõ ràng hơn nữa, tránh bệnh thành tích đối mặt với vấn đề học sinh bỏ học trên địa bàn tỉnh hiện nay.
 
Bởi thực tế sau thời gian nghỉ tết Nguyên đán vừa qua, các phòng GD&ĐT, các đơn vị trường, lãnh đạo một số xã đã vận động được nhiều học sinh có ý định bỏ học ra lớp. Huyện Văn Yên, sau kỳ nghỉ tết có trên 50 em chưa ra lớp thì nay còn trên 40 em, hay ngay như xã Trung Tâm, huyện Lục Yên, sau tết Nguyên đán 2018 có 15 em có nguy cơ bỏ học nhưng nhờ sự nhiệt tình, trách nhiệm của giáo viên, lãnh đạo xã, đến nay hầu hết các em đã ra lớp, chỉ có 2 em bỏ học.
 
Đồng chí Vũ Văn Nhân - Bí thư Đoàn xã Trung tâm cho biết: "Sau khi nhà trường gửi danh sách học sinh có nguy cơ bỏ học, được sự phân công của Hội đồng giáo dục xã, chúng tôi đã phối hợp tốt với nhà trường thường xuyên tới nhà học sinh động viên, chia sẻ, phân tích những lợi ích đồng thời cảnh báo những khó khăn trong tương lai nếu các em bỏ học, nên sau thời gian ngắn, 2 học sinh ở thôn Sâm Trên đã trở lại trường học tập”.

Lâu nay chúng ta nói chung chung việc tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, nhưng không rõ ràng là làm như thế nào hiệu quả, mà chỉ mới dừng lại ở việc lồng ghép trong các cuộc họp thôn, bản, đến gia đình học sinh vận động. Thiết nghĩ, để giải quyết triệt để tình trạng học sinh bỏ học, Sở GD&ĐT cần có những giải pháp, đề xuất gắn với từng nhóm nguyên nhân của tình trạng học sinh bỏ học như Phòng GD&ĐT Lục Yên đã đề xuất.
 
Cụ thể: về nguyên nhân nhận thức, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức của nhân dân, đặc biệt là ở các xã có đông đồng bào Dao trắng về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với GD&ĐT và vai trò, tầm quan trọng của GD&ĐT đối với công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể để thực hiện có hiệu quả việc ngăn chặn tình trạng học sinh bỏ học trên địa bàn.
 
Về nguyên nhân kinh tế: Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành cần tiếp tục thực hiện tốt công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đẩy mạnh việc giải quyết công ăn việc làm tại chỗ để giúp người dân cải thiện đời sống; rà soát lại những chính sách ưu tiên, hỗ trợ học sinh nghèo, bổ sung những ưu đãi mới, có những giải pháp vận động nguồn tài chính hỗ trợ đối với các gia đình chính sách, các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để tạo điều kiện cho các em trong độ tuổi đi học. 

Về nguyên nhân học lực yếu kém, ngành giáo dục và các trường học cần tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp vừa nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, vừa giảm tỷ lệ học sinh yếu kém. Trong đó, công tác dạy phụ đạo học sinh đóng vai trò quan trọng, là giải pháp quyết định đến việc giảm tỷ lệ học sinh bỏ học. 

Giáo viên là yếu tố quyết định kết quả phụ đạo học sinh yếu, kém. Muốn học sinh lấy lại được những kiến thức căn bản đã mất thì đòi hỏi giáo viên phải bỏ ra nhiều công sức, thực sự yêu thương học sinh, tận tụy với nghề. Đẩy mạnh sự phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể và gia đình học sinh trong việc phụ đạo học sinh yếu kém, duy trì tỷ lệ chuyên cần.

Con số về học sinh Yên Bái bỏ học mấy năm gần đây dường như vẫn được Sở GD&ĐT giữ kín khi "phớt lờ” không cung cấp cho báo chí. Dù học sinh trong tỉnh bỏ học ít hay nhiều thì vấn đề học sinh bỏ học hiện đã trở thành mối lo cho toàn xã hội, bởi nó tiềm ẩn nhiều nguy cơ vô cùng phức tạp như: trẻ em dễ bị lạm dụng sức lao động, dễ bị kẻ xấu lôi kéo tham gia vào các tệ nạn xã hội…
 
Nguy hiểm hơn, các đối tượng mua bán người cũng thường tập trung lợi dụng lừa đảo người dân sinh sống ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi khó khăn, không có công ăn việc làm ổn định cộng thêm sự kém hiểu biết về pháp luật. Tình trạng này dẫn đến nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội.
 
Kết thúc bài viết, chúng tôi xin đặt lại câu hỏi: ngành GD&ĐT tỉnh Yên Bái có thực sự quan tâm tới tình trạng học sinh bỏ học trên địa bàn hiện nay? Hàng năm, xã hội Yên Bái phải đón nhận bao nhiêu thành viên "khiếm khuyết”?
 

Trong cái nhìn xã hội học, giáo dục tại nhà trường là một giai đoạn rất quan trọng trong việc "định hình” nhân cách nói riêng và con người nói chung. Mỗi cá nhân sẽ chỉ phát triển cân bằng nếu được hưởng hai nền giáo dục tốt từ gia đình và nhà trường. Đây là hai môi trường quan trọng nhất mà ở đó mỗi cá nhân được uốn nắn, được trang bị những kỹ năng, kiến thức, thái độ nền tảng để có thể hội nhập được vào xã hội với tư cách là một thành viên của xã hội. Do đó khi đứa trẻ phải bỏ học vì bất cứ lý do nào thì coi như xã hội phải đón nhận một thành viên "khiếm khuyết”.

 
 Thành Trung - Thanh Vy

Các tin khác
Đoàn viên, thanh niên huyện Mù Cang Chải giúp dân vùng lũ dậy lại nhà cửa

Hậu quả trận mưa lớn kèm lũ quét những ngày đầu tháng 8 là nỗi đau, mất mát không gì bù đắp của người dân vùng tâm lũ Mù Cang Chải, đặc biệt là đồng bào các xã Hồ Bốn, Lao Chải và Khao Mang. Song, cũng chính trong lúc đau thương đã sáng lên câu chuyện tình người giúp nhau qua cơn hoạn nạn.

Bà Trần Thị Bích.

Trong hai ngày 12 và 13/6/2023, Báo Yên Bái đăng tải phóng sự (2 kỳ) với nhan đề “Xung quanh việc bà Trần Thị Bích tổ chức cai nghiện ma túy” của tác giả Lê Xuân Trường. Bài viết đã nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc. Sau khi bài viết được đăng tải, bà Trần Thị Bích (nhân vật trong bài viết), người tổ chức cai nghiện tại thị xã Nghĩa Lộ có đơn đề nghị gửi Báo Yên Bái.

Măng Bát Độ được người dân xã Kiên Thành thu hoạch, mang bán tại các cơ sở thu mua tập trung.

Tròn 20 năm bén duyên đất Trấn Yên, đến nay, cây tre măng Bát Độ đã phủ xanh những triền đồi, cánh rừng ở các xã vùng cao Hồng Ca, Kiên Thành, Lương Thịnh, Hưng Khánh. Khẳng định được vị thế của mình là cây trồng đa lợi ích cho người dân, cây tre măng Bát Độ đã góp phần đổi thay diện mạo, đưa Trấn Yên trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Yên Bái và các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc.

Hiện nay, những bản làng xa xôi của huyện Mù Cang Chải đang ngày một đổi thay, đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt... Đây là minh chứng cho sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự bám sát thực tiễn, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, ý chí, khát vọng vươn lên trong triển khai, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống ở nơi vùng cao đặc biệt khó khăn.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục