Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của LLVT Quân khu 2 (1975 – 2016)
- Cập nhật: Thứ hai, 20/6/2016 | 8:17:48 AM
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh giải phóng trường kỳ của dân tộc ta, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân dân. Cách mạng nước ta bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập thống nhất, cả nước đi lên CNXH.
Xe thiết giáp dẫn dắt bộ binh vượt qua cửa mở trong diễn tập TM-15.
|
Bài 2: Lực lượng vũ trang Quân khu 2 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
Thành lập Quân khu 2 và cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc
Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới của cách mạng, giữa năm 1976 Quân khu Tây Bắc được sáp nhập thành Quân khu 1, đồng chí Đàm Quang Trung được cử giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu; các đồng chí Vũ Lập, Lê Thuỳ, Lê Thanh là Phó Tư lệnh, đồng chí Võ Quốc Vinh là Phó Chính uỷ.
Trước tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, bọn phản động Pôn pốt được hỗ trợ của bọn phản động quốc tế đã gây ra nạn diệt chủng ở Cam Pu Chia và tiến hành chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Tây Nam nước ta. Đồng thời trên tuyến biên giới phía Bắc kẻ thù cũng ráo riết chuẩn bị chiến tranh xâm lược.
Để kịp thời điều chỉnh, bố trí lực lượng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình mới, ngày 21/06/1978 Quân khu 2 được thành lập, theo Sắc lệnh số 62/LCT của Chủ tịch nước, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú.
Ngày 1/7/1978, Bộ Tư lệnh Quân khu chính thức điều hành mọi hoạt động của LLVT Quân khu. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 lần lượt do các đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ; các đồng chí Đặng Quân Thuỵ, Đào Trọng Lịch, Trần Tất Thanh, Ma Thanh Toàn, Đỗ Bá Tỵ, Dương Đức Hoà làm Tư lệnh Quân khu; Các đồng chí Huỳnh Đắc Hương, Phạm Hồng Cư, Phạm Sinh, Lò Văn Nhài, Trần Thụ, Nguyễn Hữu Thìn, làm Phó Tư lệnh về chính trị. Từ năm 2006 thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, các đồng chí Lê Minh Cược, Nguyễn Ngọc Liên, Lê Hiền Vân làm Chính uỷ Quân khu.
Ngày 17/02/1979 đến 16/3/1979, quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu đã cùng với quân và dân cả nước dũng cảm kiên cường đánh bại cuộc tiến công xâm lược của đối phương ở biên giới phía Bắc. Riêng hướng Quân khu 2 đã chiến đấu với 3 quân đoàn của đối phương. Sư đoàn 316, Sư đoàn 355, Sư đoàn 313 đã cùng với đơn vị địa phương anh dũng chiến đấu đánh bại nhiều cuộc tiến công của đối phương, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, buộc phải rút về bên kia biên giới.
Ngày 16/3/1979 đến đầu năm 1989, trên biên giới phía Bắc còn phức tạp, đối phương vẫn tiếp tục lấn chiếm biên giới, tuyến biên giới Hà Tuyên trở thành điểm nóng của cả nước; có những ngày chúng sử dụng đến gần 90.000 quả đạn pháo, cối các loại bắn sang đất ta; ngã ba Phong Quang, khu vực 4 hầm đồi Cô ích, đồi Đài, cao điểm 1509, đã trở thành địa danh, chiến tích được cả nước biết đến.
Trong thời gian này, LLVT Quân khu đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới. Quân đoàn 29 với 4 Sư đoàn và các đơn vị binh chủng trực thuộc được thành lập, phòng thủ hướng Hoàng Liên Sơn. Sư đoàn 356, 313, 314 cùng một số Trung đoàn của các tỉnh và chủ lực của Bộ thay phiên nhau làm nhiệm vụ chiến đấu phòng thủ tuyến Hà Tuyên. Sư đoàn 326 và một số đơn vị khác phòng thủ hướng Lai Châu. Ngoài các đơn vị của Quân khu 2 còn có sư đoàn 357, 411 và một số Trung, Lữ đoàn binh chủng trực thuộc làm nhiệm vụ dự nhiệm ở các tỉnh biên giới (mỗi tỉnh có từ 1 đến 2 Trung đoàn, huyện biên giới có Tiểu đoàn và Đại đội, xã biên giới có từ 1 Trung đội đến 1 Đại đội dân quân tự vệ).
Trước quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta, từ đầu năm 1989 đối phương buộc phải xuống thang, rút khỏi nhiều điểm lấn chiếm trái phép. Qua 10 năm chiến đấu, LLVT Quân khu 2 cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã anh dũng chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, vừa chiến đấu vừa xây dựng, từng bước trưởng thành, hiệu suất chiến đấu ngày càng cao, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của đối phương, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, ta đã buộc đối phương phải rút khỏi những dải đất nơi biên cương đã lấn chiếm. Đó là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với quân và dân các dân tộc Tây Bắc, đồng thời cũng là thắng lợi chung của toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc.
Xây dựng LLVT Quân khu “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ” .
Qua 30 năm đổi mới (1986 – nay), dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy thành tích đạt được trong các cuộc kháng chiến, quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu đã tập trung nỗ lực, củng cố tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; chất lượng tổng hợp của LLVT Quân khu nhất là bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sỹ và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị ngày một nâng cao.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới, từ năm 1989 đến nay LLVT Quân khu đã có sự điều chỉnh về lực lượng, biên chế, tổ chức. Một số đơn vị được giải thể như Quân đoàn 29, Sư đoàn 356, Sư đoàn 313, Sư đoàn 314, Sư đoàn 357, Sư đoàn 411, Sư đoàn 326… Một số đơn vị được rút gọn làm nhiệm vụ huấn luyện quân dự bị động viên như: Sư đoàn 355, các Trung đoàn trực thuộc tỉnh cũng được rút gọn. Các đoàn KT - QP được thành lập, đó là Đoàn 379, 326, 313, 314, 356, 345, Công ty 705 làm nhiệm vụ kinh tế kết hợp với quốc phòng.
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, tình hình thế giới diễn biến phức tạp tiềm ẩn những yếu tố khó lường, chủ nghĩa đế quốc tận dụng ưu thế về kinh tế, quân sự tiếp tục can thiệp vào độc lập chủ quyền của các nước, bất chấp dư luận thế giới. Đối với nước ta chúng tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng, nhất là lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và phong tục tập quán lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số để kích động di, dịch cư tự do, truyền đạo trái pháp luật… để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tây Bắc trở thành một trọng điểm trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động.
Trong bối cảnh tình hình vừa có những thuận lợi, vừa có khó khăn đan xen. Đảng uỷ – BTL Quân khu cùng với Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã luôn đoàn kết, thống nhất, phát huy truyền thống của Quân đội và LLVT Quân khu, truyền thống của quân, dân các dân tộc Tây Bắc, lãnh đạo LLVT Quân khu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, trong thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nắm vững nhiệm vụ chính trị, chủ động vượt mọi khó khăn hoàn thành toàn diện các mặt công tác, có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc – Tiêu biểu là:
-Xây dựng LLVT Quân khu vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
LLVT Quân khu luôn đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai và thực hiện sâu rộng có hiệu quả Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đấu tranh chống lấn chiếm bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động di, dịch cư tự do và hoạt động truyền đạo trái pháp luật, làm thất bại âm mưu thủ đoạn “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn; nền quốc phòng toàn dân được củng cố; khu vực phòng thủ được tăng cường; chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT Quân khu không ngừng được nâng lên. Công tác tổ chức xây dựng Đảng thường xuyên được chú trọng, gắn xây dựng cấp ủy, tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.
LLVT Quân khu đã triển khai và thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng môi trường văn hoá ở đơn vị cơ sở. Các nội dung, biện pháp xây dựng chính quy theo Chỉ thị 37 của Thường vụ ĐUQSTW được thực hiện đồng bộ. Cán bộ, chỉ huy các cấp, các tổ chức làm việc theo đúng chức trách.
- Phát huy truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”, nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu.
Thực hiện tốt công tác SSCĐ và xây dựng khu vực phòng thủ; các cơ quan, đơn vị và địa phương triển khai đồng bộ và toàn diện các kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản, kế hoạch SSCĐ, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phòng chống cháy rừng, bảo vệ rừng. Chỉ đạo diễn tập KVPT và diễn tập chỉ huy cơ quan một bên hai cấp, đặc biệt là diễn tập KVPT tỉnh Vĩnh Phúc làm điểm cho toàn quân năm 2009 đạt kết quả tốt. Các Trung đoàn, Sư đoàn chủ lực hàng năm thực hiện tốt kế hoạch diễn tập, luyện tập chỉ huy cơ quan. Hoàn thành tốt công tác rà phá vật cản phục vụ cho nhiệm vụ phân giới cắm mốc trên biên giới Việt -Trung; biên giới Việt – Lào. Kết hợp chặt chẽ với bộ đội biên phòng, DQTV các xã biên giới tuần tra canh gác, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ xâm canh, xâm cư, lấn chiếm trái phép.
Xe thiết giáp dẫn dắt bộ binh vượt qua cửa mở trong diễn tập TM-15.
Thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, triển khai đồng bộ, toàn diện, hoàn thành tốt kế hoạch nội dung, chương trình đề ra sát với yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu, phù hợp với đối tượng tác chiến, cách đánh truyền thống và trang bị vũ khí của Quân đội ta
- Thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu
Quán triệt chức năng nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, đội quân công tác, Quân khu đã phối hợp với các cấp, các ngành ở địa phương tích cực tiến hành công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh khắc phục thiên tai và thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội. Đã đưa các tổ, đội công tác liên ngành và hàng ngàn lượt cán bộ chiến sỹ đi xây dựng cơ sở ở các nơi xung yếu, vùng sâu, vùng xa, thực hiện “bốn cùng” với nhân dân, giúp nhân dân định canh định cư, tổ chức lại bản làng, ổn định cuộc sống, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền đạo, hoạt động tôn giáo trái pháp luật, phối hợp tham gia xoá mù chữ, vận động nhân dân xoá bỏ cây thuốc phiện. Quân khu đã quyên góp hàng chục tỷ đồng xây dựng quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, quỹ “xoá đói giảm nghèo”, giúp chính quyền địa phương khắc phục khó khăn, cứu hộ cứu nạn trong thiên tai lũ lụt, tham gia xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội địa phương, xây dựng điểm sáng văn hoá ở các thôn, xã, làng, bản… Các đơn vị trong Quân khu đã nhận phụng dưỡng hàng trăm Mẹ Việt Nam anh hùng, tặng sổ tiết kiệm và nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng; tổ chức khám chữa bệnh và cấp thuốc điều trị cho nhân dân trên địa bàn. Hình ảnh “Bộ đội cụ Hồ” ngày càng được giữ vững toả sáng trong lòng đồng bào dân tộc Tây Bắc.
- Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo vượt lên khó khăn tổ chức thực hiện tốt việc bảo đảm công tác hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ SSCĐ và các hoạt động khác của LLVT Quân khu.
Luôn bảo đảm công tác hậu cần đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhiệm vụ. Thực hiện tốt phong trào thi đua “ Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”. Duy trì nghiêm lượng dự trữ vật chất, trang bị hậu cần SSCĐ; phát huy tốt nội lực, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tự túc 100% rau ăn, 75% định lượng thịt, cá; đời sống bộ đội giữ được ổn định và cải thiện, hàng năm có trên 90% đơn vị đạt tiêu chuẩn “ Nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”.
Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”. Bảo đảm đầy đủ, kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các nhiệm vụ (vũ khí trang bị SSCĐ luôn có hệ số Kbđ = 1, Kt = 1).
(Theo Báo Quân khu 2)
Các tin khác
Trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước có: 209.000 thanh niên ưu tú con em các dân tộc Tây Bắc lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường.
Tháng 10 năm 1945, Chính phủ quyết định thành lập các Chiến khu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9, 11 để lãnh đạo và chỉ huy chiến đấu; các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang thuộc Chiến khu 1. Tỉnh Sơn La, Lai Châu cùng với các tỉnh khác thuộc Chiến khu 2.
Cuộc thi tìm hiểu 70 năm truyền thống LLVT Quân khu 2 nhằm tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ LLVT và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Quân khu về lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng, dân tộc, Quân đội và truyền thống 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của LLVT Quân khu.
YBĐT - Cuộc thi báo chí về đề tài LLVT Quân khu II “70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành”. phát động từ ngày 1/3/2016 đến 31/7/2016.