Sau khi Tổ chức Y tế thế giới công bố COVID-19 không còn tình trạng khẩn cấp toàn cầu khiến nhiều người băn khoăn liên quan đến công tác phòng chống dịch COVID-19 ở nước ta trong giai đoạn mới như thế nào. Đặc biệt công tác điều trị bệnh nhân COVID-19, quyền và lợi ích của bệnh nhân khi mắc bệnh được xử lý ra sao.
Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Trọng Khoa - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) đã có những trao đổi với báo chí về quan điểm của Bộ liên quan đến công tác chữa bệnh COVID-19 trong giai đoạn mới.
Bộ Y tế sẽ có những thay đổi như thế nào trong điều trị Bệnh nhân COVID-19, quy định cách ly với người mắc COVID-19?
Ông Nguyễn Trọng Khoa: Ngay từ giai đoạn Việt Nam chuyển hướng sang trạng thái "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, Bộ Y tế đã ban hành các hướng dẫn điều chỉnh nhiều nội dung, trong đó có vấn đề liên quan đến kiểm soát, phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị, cách ly đối với người mắc COVID-19.
Hiện nay, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đang xem xét các nội dung về các hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và cách ly đối với người bệnh COVID-19.
Về cơ bản các chuyên gia cũng đã thống nhất là sẽ có một số điều chỉnh, tập trung chủ yếu vào điều chỉnh liên quan đến sử dụng thuốc kháng virus, một số thuốc kháng thể đối với COVID-19 theo các khuyến cáo và các bằng chứng mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới và các báo cáo khoa học trên thế giới.
Theo ông, cần làm gì để giảm và hạn chế thấp nhất tử vong do COVID-19 khi mà trong thời gian qua số mắc có xu hướng gia tăng và vẫn ghi nhận 1 số ca tử vong, đồng thời với tuyên bố của WHO về chấm dứt tình trạng y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại toàn cầu?
Ông Nguyễn Trọng Khoa: Mặc dù giai đoạn tháng tư và đầu tháng 5 năm 2023, Việt Nam đã ghi nhận các ca bệnh tử vong do COVID-19. Khi xem xét, phân tích các ca bệnh tử vong này, các chuyên gia nhận thấy rằng tất cả các ca bệnh tử vong đều là những người bệnh có nguy cơ cao, bệnh nền, cao tuổi hoặc là có rất nhiều bệnh kèm theo, và bản thân bệnh nhân cũng đã có tình trạng nặng từ trước.
Không phát hiện một trường hợp nào mà tử vong ở trên người bệnh mà không có bệnh nền hay là người trẻ tuổi không có bệnh nền.
Tỷ lệ tử vong hiện nay so với số nằm viện, ở đây là con số ước tính - con số này chưa thể hiện đúng bản chất, dao động khoảng 0,47% trong số bệnh nhân nằm viện.
Cần nhấn mạnh rằng những bệnh nhân COVID-19 phải nằm viện có nghĩa là những bệnh nhân có bệnh nền, có triệu chứng nặng thì mới nhập viện; những trường hợp nhẹ, hoặc triệu chứng chưa đến mức phải can thiệp y tế nhiều thì hầu hết là điều trị tại nhà hoặc là được theo dõi tại các cơ sở y tế mà không phải bệnh viện.
Theo ghi nhận của Bộ Y tế, tỉ lệ tử vong do COVID-19 ở Việt Nam từ trước đến nay ghi nhận ở mức 0,37%, thấp hơn nhiều tỷ lệ chung của thế giới là 0,99%, nghĩa là chỉ bằng khoảng một phần ba so với tỉ lệ chung của thế giới.
Đây là một số liệu thể hiện rất nhiều nỗ lực của hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Việt Nam trong công tác điều trị bệnh COVID-19 trong suốt 3 năm qua, với việc chuyển đổi rất kịp thời các hình thức từ cách ly tuyệt đối, điều trị 100% tại bệnh viện cho đến triển khai các cơ sở điều trị theo mô hình tháp ba tầng, và sau đó là triển khai điều trị, theo dõi, giám sát tại nhà.
Đây là thành quả mà suốt một thời gian chúng ta đã thích ứng một cách rất linh hoạt đối với công tác điều trị COVID-19.
Đồng thời, trong dịch COVID-19 năng lực chuyên môn của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cũng đã được nâng cao hơn.
Rất nhiều bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh đã có thể quản lý điều trị được các trường hợp suy hô hấp nặng, triển khai được kỹ thuật cao nhất trong lĩnh vực hồi sức, cấp cứu. COVID-19 vừa là thách thức, cũng là một cơ hội cho việc nâng cao năng lực cho các cơ sở khám chữa bệnh Việt Nam.
Để giảm tử vong do COVID-19, Bộ Y tế tiếp tục chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện các nội dung sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục cảnh giác với COVID-19, phát hiện sớm các trường hợp bệnh;
Các đơn vị hồi sức, đơn vị chạy thận, đơn vị có những bệnh nhân nặng đang điều trị ở bệnh viện phải theo dõi, giám sát chặt chẽ để sớm phát hiện những ca bệnh, cách ly ra khỏi khu vực đang điều trị, tránh để lây nhiễm vào các bệnh nhân đang điều trị cùng đơn vị.
Bởi vì, nếu xảy ra lây nhiễm, thường lây nhiễm vào bệnh nhân có bệnh nền, nguy cơ cao, như vậy tỉ lệ tử vong có thể gia tăng;
Thứ hai, tiếp tục tăng cường năng lực cho hồi sức cấp cứu. Bộ Y tế (Cục Quản lý khám, chữa bệnh) tiếp tục cập nhật kế hoạch, huy động sự hỗ trợ của các đơn vị, tổ chức quốc tế để đào tạo, huấn luyện về hồi sức cấp cứu đối với điều trị COVID-19, đặc biệt là vấn đề thở máy, vấn đề hệ thống oxy cho các cơ sở y tế.
Thứ ba, chỉ đạo các cơ sở khám, chữa bệnh tiếp tục theo dõi, giám sát và tăng cường hội chẩn với tuyến trên khi điều trị ca bệnh nặng, đảm bảo có sự liên thông chặt chẽ giữa các tuyến, chỉ chuyển tuyến trong trường hợp cần thiết và có sự liên hệ trước để có thể chủ động điều trị ca bệnh nặng, mang đến hiệu quả cao nhất; hạn chế chuyển tuyến trong trường hợp số ca bệnh tăng cao.
Đặc biệt, khi những bệnh viện tuyến cuối như Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh quá tải thì bắt buộc các tỉnh, địa phương phải giữ bệnh nhân lại điều trị.
Thứ tư, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn phòng lây nhiễm để hạn chế dịch bệnh lây lan trong bệnh viện; yêu cầu tất cả các cơ sở khám chữa bệnh nghiêm túc thực hiện cách ly những ca bệnh COVID-19, triển khai áp dụng mang khẩu trang cho tất cả các khu vực lâm sàng, khu vực có người bệnh phải tuân thủ tuyệt đối việc mang khẩu trang theo quy định;
Đặc biệt chú trọng bảo vệ cho những đối tượng có nguy cơ cao; trong trường hợp đến khám có dấu hiệu, triệu chứng của COVID-19 phải tiến hành xét nghiệm bằng cả phương pháp khẳng định là PCR và dùng test nhanh để chẩn đoán sớm, cách ly ngay.
Thứ năm, theo dõi, đánh giá các ca lâm sàng COVID-19 phải nhập viện, một số trường hợp phải gửi xét nghiệm, giải trình tự gene để phát hiện sớm những biến thể mới của vi rút.
Đặc biệt, các bệnh viện phải hết sức chú ý đến những trường hợp người bệnh nặng, người bệnh tử vong để có xét nghiệm giải trình tự gene, phát hiện sớm những biến thể.
Đặc biệt lưu ý những trường hợp không mắc bệnh nền mắc COVID-19 có dấu hiệu nặng, vì đây là những trường hợp đáng lo ngại, cần giám sát chặt chẽ để có thể phát hiện sớm những biến chủng gây gia tăng tình trạng nặng, như trước đây là chủng Delta.
Có một số ý kiến cho rằng nên coi COVID-19 như bệnh cúm mùa hay một bệnh truyền nhiễm nhóm B, vậy theo ông tỷ lệ tử vong do COVID-19 hiện nay có tương đương như cúm hay một số bệnh truyền nhiễm phổ biến ở VN như sốt xuất huyết?
Ông Nguyễn Trọng Khoa: Hiện nay, tỷ lệ tử vong do COVID-19 đã giảm đi rất thấp so với trước đây vào giai đoạn bùng phát mạnh năm 2021.
Mặc dù vậy, tỷ lệ tử vong do COVID-19 hiện nay ở mức 0,37%, vẫn cao hơn nhiều so với những bệnh truyền nhiễm khác, như: sốt xuất huyết tỉ lệ tử vong ở Việt Nam khoảng 0,09%.
Chính vì vậy, chúng ta không thể chủ quan và vẫn luôn phải sẵn sàng ứng phó, sẵn sàng để nâng cao năng lực chuyên môn cũng như có các kế hoạch, phương án để linh hoạt, chuyển đổi đáp ứng điều trị khi cần thiết.
Trong trường hợp các ca bệnh nhập viện tăng lên, gây quá tải bệnh viện hoặc xuất hiện các biến chủng nguy hiểm gây bệnh nặng thì chúng ta cũng phải chuẩn bị để quay trở lại giải pháp thành lập các cơ sở điều trị COVID-19 như trước đây trong giai đoạn bùng phát dịch.
Bộ Y tế yêu cầu các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải chuẩn bị kế hoạch, phương án sẵn sàng quay trở lại với tình huống dịch bệnh bùng phát.
(Theo CLO)