Xoá nợ hơn 16.000 tỷ tiền thuế chậm nộp và phạt chậm nộp

  • Cập nhật: Thứ ba, 22/10/2019 | 2:44:08 PM

16.357 tỷ đồng là số tiền sẽ được xoá nợ theo phương án xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp với các đối tượng quy định tại Nghị quyết vừa được Chính phủ trình Quốc hội sáng nay (22/10)...

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình Nghị quyết của Chính phủ
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình Nghị quyết của Chính phủ

Sáng nay (22/10), Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.

Thẩm tra dự thảo Nghị quyết nói trên, Uỷ ban Tài chính - Ngân sách (TCNS) cho biết, tổng số tiền thuế nợ tính đến ngày 31/08/2019 là 88.253 tỷ đồng, tăng 8,2% so với thời điểm 31/12/2018, trong đó tiền thuế nợ không có khả năng thu hồi của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã tự giải thể, phá sản, ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ kinh doanh là 42.990 tỷ đồng. Dự kiến, theo phương án xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp với các đối tượng quy định tại Nghị quyết này là 16.357 tỷ đồng.

Theo Ủy ban TCNS đồng tình với nhiều nội dung trong Tờ trình của Chính phủ, tuy nhiên quá trình thẩm tra cho thấy vẫn còn một số nội dung còn có ý kiến khác nhau.

Cụ thể, về nguyên tắc xử lý nợ (Điều 3), tại khoản 4 Điều 3 quy định đối với trường hợp các đối tượng được xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp khi quay lại sản xuất kinh doanh thì phải hủy quyết định xóa nợ, khoanh nợ (nếu có) và nộp vào ngân sách khoản nợ đã được xóa. Đối với quy định này, Ủy ban TCNS cho rằng, để khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp quay lại sản xuất kinh doanh, đề nghị không thu hồi đối với các đối tượng được quy định tại khoản 1, 2, 3, 6, 7 Điều 4, chỉ thu hồi đối với các trường hợp được xóa do bỏ trốn, bỏ địa chỉ kinh doanh, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do vi phạm pháp luật (khoản 4 và 5 Điều 4) và các trường hợp đã được xóa sai quy định.

Về xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp còn nợ đến trước ngày 01/7/2020 đối với các đối tượng quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 5 Điều 4 của dự thảo Nghị quyết (khoản 2), Ủy ban TCNS đề nghị rà soát việc xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với đối tượng: "Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề” tại nội dung của điểm d khoản 5 và đề nghị không xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng không tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Để có căn cứ xác định thời điểm xóa nợ, Ủy ban TCNS đề nghị bổ sung nội dung quy định xác nhận về thời điểm xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ.

Đồng thời, để bảo đảm rõ ràng, phù hợp với nội dung Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban TCNS đề nghị cần quy định cụ thể về thời điểm xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng còn nợ mà chưa được nhà nước thanh toán (phát sinh trước ngày 01/01/2011).

Chiều nay - 22/10, các đại biểu sẽ thảo luận tại tổ về những quy định trong Dự thảo về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước nói trên.

Dự thảo Tờ trình của Chính phủ quy định đối tượng được xử lý nợ là người nộp thuế có tiền nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2020 mà không có khả năng nộp ngân sách nhà nước bao gồm:

1. Người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự;

2. Người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể;

3. Người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản;

4. Người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế đã phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người nộp thuế có trụ sở hoặc địa chỉ liên lạc để kiểm tra, xác minh thông tin người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế;

5. Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề;

6. Người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ;

7. Người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán.

(Theo VnMedia)