Công tác dân tộc Yên Bái vì mục tiêu “Không để ai bị bỏ lại phía sau” - Bài 2: Khó khăn cần vượt qua

  • Cập nhật: Thứ năm, 19/3/2020 | 8:07:12 AM

YênBái - Vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Mặt khác, khả năng thích ứng của đồng bào với xu thế phát triển, hội nhập của đất nước còn chậm; quy mô sản xuất nhỏ, chưa vững chắc, sản xuất nông - lâm nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng; một bộ phận hộ nghèo DTTS chưa tích cực phấn đấu vươn lên thoát nghèo; nguồn kinh phí được giao hàng năm để thực hiện các chương trình, dự án thường về chậm, cấp chưa đồng bộ… đã khiến cho vùng DTTS gặp nhiều trở ngại trong phát triển.

Xưởng sản xuất gỗ bóc của gia đình anh Lý Văn Yên tại thôn Khe Riềng, xã Quang Minh, huyện Văn Yên tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương.
Xưởng sản xuất gỗ bóc của gia đình anh Lý Văn Yên tại thôn Khe Riềng, xã Quang Minh, huyện Văn Yên tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương.


Hạn chế, bất cập

Khẳng định rằng, đồng bào các DTTS ở Yên Bái luôn chấp hành và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực lao động sản xuất, tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo, có tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. 

Hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc được củng cố, kiện toàn và ngày càng phát huy hiệu quả. Trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng lên rõ rệt. Vai trò người có uy tín được phát huy… 

Tuy nhiên, đồng bào các DTTS sinh sống chủ yếu ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; tỉnh nghèo, chủ yếu nhận hỗ trợ ngân sách từ Trung ương, trong khi ngân sách Trung ương bố trí vốn thực hiện chính sách dân tộc còn thấp. Bình quân các chính sách do Ủy ban Dân tộc quản lý chỉ đạt 56%, có chính sách sau gần 2 năm ban hành chưa bố trí được vốn để thực hiện, chủ yếu là vốn đầu tư, do vậy, không đạt được mục tiêu các đề án đề ra.

Đơn cử như Quyết định số 102/2009/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn mức hỗ trợ thấp. Cụ thể: đối với khu vực II, mỗi khẩu được hỗ trợ 80.000 đồng/khẩu/năm; đối với xã khu vực III được hỗ trợ 100.000 đồng/khẩu/năm. Nguồn hỗ trợ này ít chưa giúp gia đình phát triển sản xuất được, mà chỉ giải quyết được nhu cầu trước mắt của gia đình, dẫn đến hiệu quả chưa cao. 

Với thị xã Nghĩa Lộ, trong 5 năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS thị xã đã có những chuyển biến tích cực; hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư xây dựng khang trang đã giảm bớt những khó khăn cho người dân trong sinh hoạt và sản xuất. 

Các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất và hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, vay vốn ngân hàng chính sách... đã tạo điều kiện cho các hộ gia đình đầu tư cho phát triển sản xuất chăn nuôi, góp phần không nhỏ vào công tác xóa đói giảm nghèo bền vững. 

Nhưng do xuất phát điểm của thị xã thấp, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhận thức của một bộ phận đồng bào DTTS khu vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, một số phong tục, tập quán còn lạc hậu, nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, việc xây dựng lối sống văn minh còn gặp những khó khăn nhất định. 

Mặt khác, một bộ phận đồng bào DTTS còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu từ hỗ trợ của Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, chưa thực sự chủ động khắc phục khó khăn vươn lên thoát nghèo. Trong khi mức đầu tư của Nhà nước so với nhu cầu thực tế ở cơ sở còn thấp; nguồn kinh phí được giao hàng năm để thực hiện các chương trình, dự án thường về chậm, cấp chưa đồng bộ nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và tính chủ động của địa phương trong việc triển khai thực hiện. 

Một số ít cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa thực sự hiểu đầy đủ về công tác dân tộc. Do vậy, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu còn chậm, chưa chủ động, chưa khoa học, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương và hiệu quả của chính sách đầu tư, còn xảy ra tình trạng chưa thực sự phát huy hiệu quả nguồn vốn các chương trình mục tiêu quốc gia. 

Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng DTTS còn thấp; mức hưởng thụ của đồng bào DTTS so với các vùng phát triển ngày càng chênh lệch. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ mai một... 

Huyện Yên Bình có 5 dân tộc chính cùng sinh sống, trong đó: dân tộc Tày chiếm 17,37%, dân tộc Dao 16,17%, dân tộc Cao Lan (Sán Chay) 6,86%; dân tộc Nùng 3,03%; các dân tộc ít người khác như: Hoa, Mường, Mông, Thái, Giáy... chiếm 0,53%. 

Trong thực hiện chính sách cấp thẻ chữa bệnh miễn phí cho người DTTS, huyện Yên Bình đã tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), chính sách BHYT đã góp phần quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn, số lượng người được thụ hưởng chính sách không ngừng tăng lên, nâng cao chất lượng công tác an sinh xã hội cho nhân dân. 

Tuy nhiên, trong thực hiện chính sách này, còn một số xã chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách về BHYT cho người dân. Công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc cấp phát thẻ đến đối tượng tại một số xã chưa đảm bảo, một số xã giao cho trưởng thôn cấp phát. Một số trường hợp không đến lấy thẻ ngay từ đầu năm, khi cần đi khám chữa bệnh lại báo chưa được cấp thẻ, hoặc báo mất thẻ, mất thời gian, công sức của các cơ quan chuyên môn. 

Do đó, ảnh hưởng tới quyền lợi của người được thụ hưởng chính sách và tác động không tốt đến tâm lý của một bộ phận không nhỏ người dân. UBND các xã chưa kịp thời chỉ đạo cán bộ chuyên môn rà soát tổng hợp lập danh sách cấp thẻ bổ sung trẻ em trên 72 tháng tuổi và trường hợp mới chuyển đến dẫn đến không có thẻ BHYT...

Trở ngại cần vượt qua 

Các chính sách dân tộc có phát huy hiệu quả thì mới giúp vùng đồng bào DTTS phát triển bền vững, giảm số hộ tái nghèo, hạn chế hộ nghèo mới phát sinh, khắc phục tình trạng tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng, miền khi ở khu vực các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo vẫn trên 50%, một số nơi trên 60%, khắc phục sự chênh lệnh không chỉ về thu nhập mà cơ hội phát triển giữa vùng DTTS và các vùng khác. 

Về vấn đề này, bà Hồ Thị Thu - Trưởng phòng Dân tộc huyện Yên Bình cho rằng, các cấp ủy, chính quyền các địa phương cần thể hiện rõ được tính ưu tiên trong bố trí vốn cho các chính sách phát triển vùng đồng bào DTTS, nhất là trong bối cảnh hiện nay nguồn vốn hỗ trợ ít, địa bàn và đối tượng cần hỗ trợ nhiều, suất đầu tư lớn, ngân sách địa phương khó khăn nên chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân trong khi cùng lúc có nhiều chương trình, dự án, chính sách không được tích hợp, khó lồng ghép, khó lựa chọn ưu tiên chính sách. 

Chính việc cấp phát vốn không đủ, cấp chậm, không đồng bộ giữa vốn vay, sự nghiệp và vốn đầu tư đối với một số chính sách đã ảnh hưởng nhiều đến kết quả thực hiện. Hơn nữa, cơ chế phân bổ vốn, quản lý, thanh quyết toán các chương trình, chính sách dân tộc còn nhiều bất cập, khó lồng ghép các nguồn vốn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi; chưa có cơ chế đặc thù để phát huy được nội lực của người dân, người nghèo trong quá trình hội nhập. 

Mặt khác, hiện nay năng lực xây dựng và ban hành chính sách được đánh giá chưa cao, kinh phí để xây dựng chính sách thấp, việc điều tra, khảo sát một số chính sách chưa đảm bảo, dẫn đến chất lượng chính sách ban hành chưa cao. 

Đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc và cán bộ trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu. Có nhiều đầu mối ban hành chính sách, vai trò và trách nhiệm chủ trì thẩm định chưa thật rõ; chưa có cơ chế để đảm bảo chủ động nguồn lực thực hiện chính sách. Tính chủ động của cấp ủy, chính quyền một số địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn chưa được đề cao. 

Ông Trần Tiến Thơm - Chủ tịch UBND xã Phúc An, huyện Yên Bình cho biết: "Qua thực tế, chúng tôi thấy Phúc An cần sớm khắc phục tình trạng một số cán bộ, công chức chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, chưa chủ động trong tham mưu, đề xuất tháo gỡ khó khăn dẫn đến kết quả triển khai một số nhiệm vụ chậm, hiệu quả chưa cao. Vì thế, nhận thức của một bộ phận người dân về thay đổi tập quán trong sản xuất chưa cao, công tác quản lý đất đai, môi trường có lúc bị buông lỏng, xã còn nhiều trường hợp sinh con thứ 3 trở lên, tỷ lệ hộ nghèo còn cao…”. 

Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội vẫn còn hạn chế, nhất là trong việc tổ chức thực hiện các chính sách có tính liên ngành nhằm tạo sinh kế bền vững cho hộ nghèo, còn tình trạng các ngành độc lập triển khai nhiệm vụ của mình; đào tạo nghề nông thôn chưa thực sự mang lại hiệu quả tạo sinh kế bền vững giúp đồng bào thoát nghèo; vai trò điều phối, lồng ghép chính sách của nhiều ban chỉ đạo cấp tỉnh các chương trình mục tiêu quốc gia chưa rõ nét... 

Cơ chế thực hiện chính sách còn bất cập như: thiếu cơ chế khuyến khích đối với các địa phương thực hiện tốt chính sách và chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý đối với các trường hợp triển khai chậm, kém hiệu quả; chưa có cơ chế đặc thù để phát huy được nội lực người dân trong quá trình hội nhập, phù hợp với đặc điểm vùng DTTS. Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá, sửa đổi thực hiện một số chính sách dân tộc chưa đạt được như mong muốn.

Xác định rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó sẽ giúp công tác dân tộc của tỉnh đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới. Đầu tư phát triển kinh tế, xã hội vùng DTTS là đầu tư cho phát triển đi liền với xóa đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển; giữ gìn và phát huy bản sắc các dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm đạt được mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội về công tác giảm nghèo nhằm khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên thoát nghèo và huy động nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững còn nhiều bất cập, chưa tạo được chuyển biến trong đội ngũ cán bộ cơ sở và người dân về những thay đổi chính sách và cách tiếp cận mới trong giảm nghèo. Người dân chưa thực sự được tham gia sâu trong quá trình tham vấn, giám sát chương trình, chính sách.

Thành Trung 
Bài 3: Chính sách đồng bộ, tạo động lực mới