Phát triển lâm nghiệp xanh
Để nâng cao chất lượng rừng, thời gian qua, tỉnh Yên Bái đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt quan tâm triển khai đánh giá cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và chứng nhận sản xuất hữu cơ cho gần 30.000 ha rừng. Các chính sách hỗ trợ trồng rừng nguyên liệu theo hướng bền vững bằng các giống tiến bộ kỹ thuật tiếp tục được thực hiện có hiệu quả.
Diện tích trồng rừng hàng năm bình quân đạt trên 15.000 ha với các cây trồng lâm nghiệp chủ lực (cây quế trên 82.000 ha, cây sơn tra trên 9.000 ha và cây tre măng gần 6.000 ha), giúp tỷ lệ che phủ rừng duy trì đạt 63%. Bên cạnh đó, tỉnh Yên Bái đã tích cực thu hút trên 60 doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công cao, công nghệ tiên tiến vào chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Đặc biệt vừa qua, tỉnh Yên Bái đã chấp thuận chủ trương đầu tư đối với Công ty Cổ phần EREX (Nhật Bản) đầu tư xây dựng Nhà máy nhiên liệu sinh khối Erex Sakura Yên Bái tại Cụm công nghiệp Bắc Văn Yên trên cơ sở tận dụng tối đa nguồn năng lượng sinh khối từ các phụ phẩm, phế phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp, chế biên lâm sản và các loại cây trồng khác có thể sử dụng làm nhiên liệu cho sản xuất điện.
Đây được xem là một cách tiếp cận mới theo hướng tuần hoàn, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm lãng phí sản xuất, hạn chế những tác động tiêu cực cho môi trường, đồng thời tạo ra giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm thiểu tác động tiêu cực đên môi trường và tạo ra năng lượng tái tạo hữu ích cho xã hội.
Mạnh dạn chuyển đổi
Là địa phương có diện tích cây ăn quả lớn trên địa bàn tỉnh, để từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng tới nền nông nghiệp xanh, thời gian qua, huyện Lục Yên đã chú trọng công tác tuyên truyền, định hướng người dân lựa chọn các giống tốt tại các cơ sở giống uy tín để phát triển trồng mới, thay thế những diện tích đã già cỗi. Cùng với đó, vận động nhân dân tập trung đầu tư chăm sóc những diện tích đang trong thời gian thu hoạch theo quy trình hữu cơ, tiêu chuẩn VIETGAP, thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm và xây dựng sản phẩm OCOP tạo thương hiệu và uy tín trên thị trường.
Ông Hoàng Mạnh Hà - Chủ tịch UBND huyện Lục Yên cho biết: "Giai đoạn 2021 - 2025, huyện Lục Yên đã xây dựng kế hoạch chuyển đổi nhiều vùng sản xuất nông nghiệp sang sản xuất theo hướng hữu cơ, VietGAP như: vùng sản xuất lúa trên 600 ha, lạc đậu hơn 100 ha, cây ăn quả trên 1.000 ha; 3 HTX được cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP... và duy trì, nâng cấp 16 sản phẩm được chứng nhận đạt tiêu chuẩn OCOP, 7 sản phẩm được cấp nhãn hiệu chứng nhận. Đồng thời, Lục Yên cũng chú trọng đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ, phối hợp xây dựng, nhân rộng các mô hình ứng dụng công nghệ cao để từng bước hướng tới mục tiêu xanh, sạch, hiệu quả, kinh tế bền vững cho nông dân”.
Điển hình như tại vùng trồng cam vinh của xã Tân Lĩnh, hiện nay, để nâng cao và duy trì chất lượng sản phẩm, các HTX cũng như các hộ dân đã tập trung áp dụng các chế độ trồng, chăm sóc chỉ sử dụng các loại thuốc trừ sâu, trừ cỏ sinh học, các loại phân vi sinh, phân hữu cơ từ chất thải của gia súc và phân xanh hữu cơ...
Anh Nguyễn Quang Hiền ở thôn 4, xã Tân Lĩnh cho biết: "Chúng tôi đã vận động tất cả bà con nhân dân trong thôn thực hiện nghiêm việc trồng và chăm sóc cam theo quy trình VietGAP, chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo danh mục cho phép và có nhật ký phun, chăm sóc theo quy định. Nhờ đó, tất cả diện tích cam của gia đình tôi đã cấp chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, có mặt tại nhiều tỉnh, thành, trung tâm thương mại lớn như: BigC, Công ty Nông sản Việt Bắc..., được người tiêu dùng đánh giá cao”.
Sản xuất xanh cho giá trị tăng trưởng bền vững
Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái khóa XIX về phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng gắn với xây dựng NTM bền vững, tỉnh Yên Bái luôn quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực và xác định vai trò, vị trí quan trọng của phát triển nông nghiệp là nền tảng, trụ đỡ để tạo đà phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thực hiện cơ cấu lại sản xuất, hàng năm, tỉnh Yên Bái đã duy trì và phát triển tốt diện tích gieo trồng các loại cây trồng chủ lực của tỉnh, tỷ lệ phủ xanh đồng ruộng ngày một gia tăng, cụ thể: Diện tích gieo cây lúa hàng năm duy trì trên 42.000 ha; cây ngô trên 29.000 ha; cây chè trên 7.000 ha; cây sắn trên 8.000 ha; cây ăn quả trên 10.000 ha; cây dâu tằm trên 1.000 ha... Bên cạnh đó, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ cây có giá trị kinh tế thấp sang cây có giá trị kinh tế cao và thâm canh tăng vụ để tăng thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác của người dân.
Các tiến bộ khoa học về giống, quy trình canh tác được tăng cường ứng dụng vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và giảm thiểu tác động đến môi trường, cụ thể như: Kỹ thuật ủ phân hữu cơ bằng men vi sinh; kỹ thuật canh tác lúa cải tiến SRI; kỹ thuật sản xuất rau, quả theo hướng an toàn; giải pháp quản lý sức khoẻ cây trồng tổng hợp (PHM); quản lý, cấp mã số vùng trồng...
Cùng với đó, công tác bảo vệ mội trường trong quá trình sản xuất được quan tâm, chỉ đạo thực hiện, hướng dẫn người sản xuất sử dụng phân bón hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, thu gom, xử lý rác thải nguy hại phát sinh từ hoạt động sản xuất (bao bì thuộc bảo vệ thực vật, phân bón...).
Người dân Lục Yên đã dần chuyển đổi sang mô hình trồng cam theo tiêu chuẩn VietGAP.
Tỉnh đã ban hành đồng bộ cơ chế, chính sách, đề án phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản; hỗ trợ phát triển các sản phẩm đặc sản, sản phẩm chủ lực, lựa chọn các sản phẩm đa dạng, phù hợp với các vùng miền; hỗ trợ liên kết theo chuỗi giá trị, sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Các chính sách hỗ trợ của tỉnh đã góp phần tích cực trong thay đổi tư duy sản xuất của người nông dân từ sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực, theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh để nông nghiệp tỉnh Yên Bái phát triển bền vững theo hướng phát triển xanh.
Về sản xuất chăn nuôi, trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế, tỉnh Yên Bái định hướng phát triển sản xuất chăn nuôi theo hai vùng chủ đạo. Đối với các xã, huyện vùng thấp tập trung phát triển chăn nuôi theo quy mô tập trung hàng hóa, tăng cường ứng dụng các giống tiến bộ, quy trình chăn nuôi công nghiệp khép kín, chất thải chăn nuôi được thu gom và xử lý tại chỗ (xử lý Biogas và ủ sinh học..).
Đối với các xã, huyện vùng cao, tập trung phát triển các đối tượng vật nuôi đặc sản, bản địa theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học. Đặc biệt, do có lợi thế về đồi rừng nên hoạt động chăn nuôi đại gia súc theo hướng bán chăn thả được quan tâm hỗ trợ phát triển. Đây được xem là hướng đi phù hợp với điều kiện của một tỉnh miền núi nhằm sử dụng có hiệu quả, hợp lý tài nguyên thiên nhiên và giảm tác động tiêu cực đến môi trường.
Năm 2024, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp của tỉnh đạt 3,56%, đứng thứ 5/14 tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, đứng thứ 24/63 tỉnh, thành phố cả nước. Cơ cấu nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 21,84% trong cơ cấu GRDP của tỉnh Yên Bái. Sau 5 năm triển khai Chương trình OCOP, đến hết năm 2024, toàn tỉnh đã có 297 sản phẩm OCOP, trong đó có 25 sản phẩm đạt 4 sao, 272 sản phẩm đạt 3 sao.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng giới thiệu, chào hàng đối với trên 30 sản phẩm chủ lực, đặc sản, sản phẩm OCOP sang thị trường các nước châu Âu (Anh, Pháp, Đức,...). Sản phẩm của tỉnh đã nhận được phản hồi tốt về phía khách hàng châu Âu, bước đầu lựa chọn được 10 sản phẩm nông sản chủ lực tiêu biểu đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng để xuất khẩu sang thị trường Anh quốc.
Đi theo con đường nông nghiệp xanh gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững là hướng đi các cơ sở sản xuất tạo ra lợi thế cạnh tranh, tạo dựng thương hiệu, mở rộng thị trường. Điều này vừa góp phần hình thành nên vùng sản xuất bền vững vừa nâng cao được giá trị cho sản phẩm. Hướng đi này đang tạo ra những giải pháp động lực để Yên Bái tiếp tục nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững, góp phần khẳng định vai trò của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh trước yêu cầu phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có trên 50 dự án liên kết chuỗi được hỗ trợ thực hiện, trong đó hỗ trợ các dự án xây dựng vùng nguyên liệu theo quy trình tiêu chuẩn chất lượng (hữu cơ, VietGap). Nhiều mô hình sản xuất theo hướng tuần hoàn, tích hợp đa giá trị từng bước được áp dụng như: Mô hình sản xuất lúa ruộng bậc thang vùng cao gắn với du lịch mùa vàng; Mô hình chè Shan tuyết cổ thụ gắn với du lịch; Mô hình chăn nuôi đại gia súc, gia cầm và trồng cây dược liệu dưới tán rừng; Mô hình lúa, cá và các mô hình vườn - ao - chuồng... đã góp phần tích cực vào thay đổi tư duy, phương thức sản xuất của tỉnh theo huớng xanh, an toàn và hiệu quả. |
Thu Trang