Trình ba dự án Luật tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV
- Cập nhật: Thứ năm, 27/10/2016 | 4:59:31 PM
Tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp thứ 2, sáng 27/10, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường nghe các Tờ trình về dự án Luật quản lý ngoại thương; dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi); dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) và thảo luận tại tổ dự án Luật Quản lý ngoại thương.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh trình bày Tờ trình dự án Luật Quản lý ngoại thương.
|
Tăng cường công cụ quản lý nhà nước về ngoại thương
Tờ trình dự án Luật Quản lý ngoại thương do Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh trình bày trước Quốc hội nêu rõ việc xây dựng một đạo luật về quản lý ngoại thương có tính định hướng rõ ràng, phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước, ổn định, minh bạch, thống nhất, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết. Đồng thời, đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương thuận lợi, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Dự án Luật bao gồm 8 chương, 115 điều quy định các biện pháp quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương (các biện pháp hành chính, các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch, khẩn cấp, phòng vệ thương mại, phát triển hoạt động ngoại thương…) có liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế; không can thiệp vào các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa các thương nhân với nhau; chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, không điều chỉnh đối tượng dịch vụ.
Riêng đối với xuất nhập khẩu dịch vụ, theo quy định tại Quyết định số 28 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng cho biết 12 nhóm ngành dịch vụ xuất, nhập khẩu đã được quy định cụ thể như du lịch, vận tải, bưu chính và viễn thông, xây dựng, bảo hiểm, tài chính, máy tính và thông tin... đều được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật chuyên ngành (như Luật Viễn thông, Luật Xây dựng, Luật Du lịch, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán...).
Do tính chất đặc thù của dịch vụ, việc xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ chỉ có thể thực hiện được thông qua 2 phương thức. Một là, cung cấp qua biên giới, trong đó, nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ không gặp nhau; họ vẫn ở 2 nước khác nhau và dịch vụ được cung cấp từ nước này vào nước kia. Hai là, tiêu dùng ngoài lãnh thổ, trong đó người sử dụng dịch vụ phải đi ra nước ngoài để tiếp cận dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ (như đi du lịch, du học hay chữa bệnh tại nước ngoài).
Với 2 phương thức đặc thù như vậy, Bộ trưởng khẳng định việc kết hợp với sự đa dạng của các loại hình dịch vụ, đề ra các quy tắc chung và các biện pháp quản lý chung cho xuất nhập khẩu dịch vụ trong một luật là không khả thi. Vì vậy, như tất cả các nước khác, Việt Nam sử dụng các biện pháp sau biên giới để quản lý. Các biện pháp này đều đã được cụ thể hóa trong các luật chuyên ngành. Nếu Luật Quản lý ngoại thương cũng quy định về xuất nhập khẩu dịch vụ, sẽ tạo nên sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật hiện hành. Do đó, dự án Luật được xây dựng theo định hướng là một đạo luật điều chỉnh, quản lý hoạt động “ngoại thương hàng hóa”, không điều chỉnh đối với “ngoại thương dịch vụ.”
Thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tán thành với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật Quản lý ngoại thương nhằm góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động ngoại thương. Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục rà soát sự phù hợp của dự án Luật với Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác có liên quan, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên bảo đảm quyền tự do kinh doanh của tổ chức, cá nhân; công khai, minh bạch danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tránh có sự mâu thuẫn, chồng chéo với các luật khác; luật hóa tối đa các quy định của các văn bản dưới luật đã được kiểm nghiệm có tính ổn định trong thực tiễn; giảm bớt các điều giao Chính phủ quy định chi tiết; rà soát những điều chỉ có nội dung giải thích từ ngữ, bố cục chương, mục, tiểu mục ngắn gọn, chặt chẽ.
Xác định rõ chủ thể có trách nhiệm giải quyết bồi thường của Nhà nước
Tờ trình về dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) nêu sau hơn 6 năm thi hành, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của mình, phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Tuy nhiên, Luật hiện hành bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và thiệt hại được bồi thường chưa được cập nhật nên không đầy đủ, thiếu đồng bộ với những thay đổi trong quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và các quy định trong các bộ luật, luật mới ban hành để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
Luật hiện hành quy định chưa rõ ràng việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong nhiều tình huống nên đã gây khó khăn cho việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường cũng như trong việc thực hiện yêu cầu bồi thường, dẫn tới hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm giải quyết bồi thường.
Luật quy định chưa rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại, trách nhiệm của người ra quyết định hoàn trả dẫn đến việc hoàn trả của người thi hành công vụ còn bị xem nhẹ và chưa được thực hiện thống nhất... Đây là những lý do cần thiết phải sửa đổi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành.
Đọc Tờ trình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long nêu rõ mục tiêu của việc sửa đổi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 là nhằm hoàn thiện cơ bản khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành; thiết lập cơ chế pháp lý minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và quyền, lợi ích của Nhà nước; từng bước nâng cao trách nhiệm của người thi hành công vụ, hiệu lực, hiệu quả nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.
Dự thảo Luật có 9 chương, 78 điều, (so với Luật hiện hành, dự thảo Luật đã sửa đổi 42/67 điều, bỏ 20 điều và quy định mới 36 điều).
Thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cơ bản nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ hơn về thực trạng giải quyết bồi thường của Nhà nước cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
Ủy ban Pháp luật đề nghị dự thảo Luật cần xác định rõ chủ thể có trách nhiệm giải quyết bồi thường, nguồn kinh phí bồi thường; các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường cần bảo đảm đơn giản, thuận tiện, chặt chẽ, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc lựa chọn hình thức giải quyết yêu cầu bồi thường, cần nghiên cứu bổ sung quy định cá nhân, tổ chức bị thiệt hại khi đã có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường thì có quyền lựa chọn hoặc khởi kiện yêu cầu bồi thường tại tòa án hoặc giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này. Quy định này mới tạo cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thể hiện đúng tính chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Khắc Định trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi).
Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Tờ trình dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) đã nêu lên những tồn tại, hạn chế dẫn đến cần thiết phải sửa đổi Luật trợ giúp pháp lý hiện hành. Quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, trong đó quan trọng nhất là các quy định của Luật hiện hành bộc lộ những bất cập, thiếu đồng bộ với các văn bản luật được ban hành gần đây; thiếu cơ chế bảo đảm để các quy định về quyền được trợ giúp pháp lý được thực thi đầy đủ.
Nhận thức về vị trí, vai trò và yêu cầu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý có lúc còn chưa đầy đủ, có nơi chưa quan tâm đúng mức; công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động trợ giúp pháp lý đôi khi còn chưa chặt chẽ; các nguồn lực và đội ngũ cán bộ làm trợ giúp pháp lý còn hạn chế.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp nêu rõ mục tiêu xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) để khắc phục hạn chế, bất cập trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước, xã hội nhằm cung cấp kịp thời dịch vụ pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý có nhu cầu, tạo bước chuyển biến căn bản, đột phá trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý; bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; đồng bộ với khuôn khổ pháp luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật quy định về người được trợ giúp pháp lý, tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Theo đó, việc cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý tự nguyện cho người được trợ giúp pháp lý của các tổ chức xã hội bằng nguồn lực của mình cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật trợ giúp pháp lý.
Dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) gồm 8 chương, 49 điều.
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội thẩm tra dự án Luật đề nghị, để tăng cường xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, trong sửa đổi Luật lần này, cần tạo lập các cơ chế để thu hút nhiều hơn nữa sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội vào hoạt động này, không chỉ bằng nguồn lực của họ mà cả bằng nguồn lực của Nhà nước, san sẻ trách nhiệm của Nhà nước với xã hội.
Đồng thời, đề nghị Chính phủ báo cáo, đánh giá cụ thể, sâu sắc hơn về việc tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội vào hoạt động trợ giúp pháp lý thời gian qua (về số lượng, loại hình, chất lượng vụ việc giải quyết trợ giúp pháp lý và nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho tổ chức, cá nhân này...) để có thêm cơ sở cho việc Quốc hội xem xét, quyết định.
Tán thành cần thiết ban hành Luật quản lý ngoại thương
Thời gian còn lại trong phiên làm việc sáng nay, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại Tổ về dự thảo Luật Quản lý ngoại thương.
Qua thảo luận, nhiều đại biểu tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Quản lý ngoại thương nhằm góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động ngoại thương; tăng cường công cụ quản lý nhà nước về ngoại thương, đảm bảo minh bạch, hiệu quả, phù hợp với các cam kết quốc tế. Việc ban hành Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, góp phần hoàn thiện chính sách phát triển ngoại thương, tạo lập chính sách phòng vệ thương mại linh hoạt và phù hợp, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý hoạt động ngoại thương, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện.
Theo đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh), việc ban hành Luật Quản lý ngoại thương nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi, góp phần thức đẩy sản xuất trong nước, phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Đại biểu cũng thể hiện sự đồng tình với phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật chỉ quy định công tác quản lý hàng hóa nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương hàng hóa.
Về việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, đại biểu cho rằng, giao Chính phủ thống nhất quy định chi tiết danh mục hàng hóa cấm xuất nhập khẩu nhằm bảo đảm tính linh hoạt chủ động trong quán lý điều hành, phù hợp với từng thời kỳ, đồng thời bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân đã được hiến định.
Cho rằng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian qua còn nhiều chồng chéo, việc Luật Quản lý ngoại thương ra đời sẽ hạn chế được những tồn tại trong thời gian vừa qua trong lĩnh vực ngoại thương, song đại biểu Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình) còn băn khoăn về danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu được quy định tại Điều 10 của dự thảo Luật. Đại biểu đề nghị cần phải quy định cụ thể danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu tại dự thảo Luật để bảo đảm cơ sở pháp lý cao và minh bạch.
Buổi chiều, các đại biểu Quốc hội tiếp tục làm việc tại Tổ về dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) và dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi).
(Theo TTXVN)
Các tin khác
Đây là ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình tại hội nghị lấy ý kiến cho dự thảo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tổ chức sáng 27/10 tại Hà Nội.
YBĐT - Sáng 27/10, đồng chí Phạm Thị Thanh Trà - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái đã tiếp và làm việc với ông Lee Hyuk – Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong các ngày từ 24-27/10, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Nguyễn Văn Giàu làm Trưởng đoàn, tham dự Đại Hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 135 (IPU-135) tại Geneva (Thụy Sĩ).
Ngày 26/10, tại Hà Nội, Hội nghị cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong lần thứ 7 (ACMECS 7) đã thông qua Tuyên bố “Hướng tới Tiểu vùng Mekong năng động và thịnh vượng”. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bản Tuyên bố.