Thắng lợi bằng đấu tranh ngoại giao
- Cập nhật: Thứ năm, 20/7/2017 | 8:00:16 AM
Hiệp định Giơ - ne - vơ năm 1954, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của 3 quốc gia: Việt Nam, Lào và Cam - pu - chia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Quang cảnh hội nghị Giơ - ne - vơ.
|
Tháng 1/1954, ngoại trưởng 4 nước: Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp đã họp tại Bec -lin và quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơ - ne - vơ (Thụy Sĩ) để giải quyết 2 vấn đề: chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 26/4/1954, khi Quânđội nhân dân Việt Nam kết thúc chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên phủ thì Hội nghị Giơ - ne - vơ bắt đầu được khai mạc. Tham dự Hội nghị có đại diện của: Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ , chính quyền Bảo Đại, Cam - pu - chia và Lào. Ban đầu, Hội nghị không bàn ngay về vấn đề Đông Dương, mà về vấn đề chiến tranh Triều Tiên trước. 17h30 ngày 7/5/1954, tin thất bại của thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ gửi về Hội nghị từ Đông Dương.
Do đó, sáng ngày 8/5/1954, vấn đề Đông Dương sớm được đưa lên bàn nghị sự. Phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn cùng với 2 phái đoàn của Cam - pu - chia và Lào chính thức tham gia.
Đại diện Chính phủ Việt Nam đến dự Hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Bản đề nghị 8 điểm nổi tiếng của Phạm Văn Đồng cũng được đưa ra làm cơ sở thảo luận tại Hội nghị, bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân các nước thuộc địa và các nước thực dân, đặc biệt là đối với nhân dân và chính phủ Pháp. Lập trường cơ bản của Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ.
Nước Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và Lào, Cam - pu - chia. Vấn đề thống nhất nước Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài... Những đề nghị hợp tình, hợp lý của Việt Nam đã được dư luận tiến bộ ở chính nước Pháp và trên thế giới đồng tình ủng hộ.
Nhìn vào thành phần tham gia Hội nghị, Việt Nam có hai đồng minh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng lại phải đấu tranh với 6 bên còn lại. Do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm chạp.
Một mặt, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên phải tham gia công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cam - pu - chia; cô lập bọn chủ chiến ở Pháp và bọn can thiệp Mỹ; làm cho nhân dân Pháp thấy chính phủ Pháp của Thủ tướng Laniel lúc bấy giờ là hiếu chiến cần phải thay đổi thì Hội nghị Giơ - ne - vơ mới thu được kết quả.
Đồng thời, đoàn Việt Nam phải triệt để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài Hội nghị. Trong khi đó, lập trường của các đoàn đại biểu các nước phương Tây là hiếu chiến. Đoàn đại biểu Mỹ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, thay chân Pháp xâm lược Đông Dương.
Đoàn đại biểu của Vương quốc Anh thì chủ trương ủng hộ Pháp thương lượng trên thế mạnh. Phái chủ chiến của Pháp nhận đàm phán với Việt Nam để tránh búa rìu dư luận và tránh bị nhân dân Pháp lật đổ, đồng thời cứu nguy cho quân đội Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, đoàn Pháp và đoàn Mỹ bị ba đoàn Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc kịch liệt lên án về chủ tâm phá hoại Hội nghị.
Kết quả là, do đoàn Pháp vẫn giữ lập trường cứng rắn, nội các của Thủ tướng Laniel bị nhân dân Pháp lên án, buộc phải từ chức ngày12/6/1954. Phe chủ chiến ở Pháp bị đánh đổ, Mendès France thuộc phái chủ hòa lập chính phủ mới. Ngày 18/6/1954, khi nhậm chức, ông Mendès France tuyên bố sẽ từ chức, nếu trong vòng một tháng không đạt được ngừng bắn ở Đông Dương. Vào thời điểm này, tại Sài Gòn, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng thay Bửu Lộc dưới quyền Bảo Đại.
Cuối giai đoạn 1 của Hội nghị, các bên tham gia đàm phán vẫn thăm dò lẫn nhau về giải pháp và đưa ra lập trường của mình mà không đi đến một thỏa thuận thực chất nào. Từ ngày 10 đến 20/7/1954 là giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán. Các đoàn làm việc rất khẩn trương để giải quyết những vấn đề then chốt. Về vấn đề đình chiến ở Lào và Cam - pu - chia, đoàn Việt Nam đấu tranh quyết liệt, nhưng chỉ giành được khu tập kết cho Phathet Lào ở hai tỉnh, mà không đạt được việc điều chỉnh vùng đóng quân cho Khơme Itsarak.
Về vấn đề giới tuyến phân vùng và thời hạn tuyển cử ở Việt Nam, đoàn Việt Nam kiên trì vĩ tuyến 16 và tổng tuyển cử sớm. Ngày 19/7/1954, ba đoàn: Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất đưa cho đoàn Pháp phương án cuối cùng giới tuyến đi qua đường số 9 mười cây số. Phương án này được đoàn Việt Nam gợi ý từ tháng 6, nhưng phía Pháp vẫn đòi đi qua vĩ tuyến 18.
Tại cuộc họp đêm 20/7/1954, 5 trưởng đoàn: Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam vào phút chót mới thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng và thời hạn tổng tuyển cử ấn định là hai năm.
Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng, với thiện chí của phái đoàn Việt Nam, ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ - ne - vơ về đình chỉ chiến tranh ở Đông Dương được ký kết.
Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở 3 nước và Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị tạo thành khung pháp lý của Hiệp định Giơ - ne - vơ năm 1954 về Đông Dương.
Các nước tham gia Hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam - pu - chia.
Nhân dân VIệt Nam vui mừng trước sự kiện quốc tế triệu tập Hội nghị Giơ - ne - vơ.
Theo Hiệp định đã ký kết, Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17. Các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh: "Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ".
Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7/1956 bằng tổng tuyển cử "tự do và dân chủ". Quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một ủy ban giám sát quốc tế gồm có: Ba Lan, Ấn Độ và Ca - na - đa sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.
Thắng lợi ở Hội nghị Giơ - ne - vơ là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp ở Hội nghị Giơ - ne - vơ; là bài học còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế hiện nay.
B.T
Các tin khác
YBĐT - Sáng 19/7, Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở tỉnh tổ chức Hội nghị sơ kết công tác thực hiện QCDC ở cơ sở 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm.
YBĐT - Hội thi Tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới và thanh niên Yên Bái với cải cách hành chính (CCHC) năm 2017 do Tỉnh đoàn Yên Bái tổ chức đã trở thành sân chơi ý nghĩa, bổ ích của đoàn viên, thanh niên (ĐVTN). Qua 3 năm tổ chức, năm nay, Hội thi thu hút 40 thí sinh là cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) các cơ quan Đảng, đoàn thể, cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị sự nghiệp.
Sáng ngày 18/7, đồng chí Nguyễn Văn Khánh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai - Tìm kiếm cứu nạn tỉnh đã đi kiểm tra tình hình thiệt hại do mưa lũ gây ra tại huyện Trấn Yên, Văn Yên và thành phố Yên Bái.
“Hai dân tộc Việt Nam và Lào luôn kề vai sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, xây đắp nên mối tình hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện, trở thành tài sản vô giá, nguồn lực quý báu và là nhân tố cực kỳ quan trọng, bảo đảm sự thành công của cách mạng mỗi nước”.