Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội

  • Cập nhật: Thứ năm, 9/11/2017 | 8:26:26 AM

Cùng với sự đổi mới sâu sắc của đất nước ta trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực hơn, hiệu quả hơn... Trong thời gian tới, xu hướng này đã và đang được phát huy và giữ vững để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của Quốc hội.

Trong những năm qua, cùng với đổi mới chung của đất nước và hệ thống chính trị, Quốc hội nước ta cũng có nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình. Hoạt động lập pháp được đẩy mạnh, số lượng, chất lượng được nâng lên. 

Hoạt động giám sát đã đi vào trọng tâm, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, đạt được những kết quả tích cực. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thực chất hơn, giảm dần tính hình thức. Hoạt động ngoại giao nghị viện tiếp tục được mở rộng và tăng cường. Phương thức hoạt động, lề lối làm việc ngày càng được cải tiến; nhân dân quan tâm và tin tưởng hơn vào Quốc hội.

Đạt được những kết quả đó là do có sự lãnh đạo và đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; Quốc hội đã kế thừa và phát huy tốt thành quả sự nghiệp đổi mới của đất nước và của Quốc hội các nhiệm kỳ trước; nhận thức của hệ thống chính trị và xã hội được nâng lên; sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và tinh thần cộng tác phối hợp của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hữu quan và nhân dân ngày càng chặt chẽ. Đồng thời có sự nỗ lực phấn đấu, đổi mới mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội.

Có thể nói, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm thực hiện ngày càng có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đã góp phần tạo ra nguồn sinh lực mới cho cả hệ thống chính trị và mở rộng không khí dân chủ ở nước ta. 

Các kỳ họp hằng năm của Quốc hội đã thực sự trở thành những đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong cả nước. Những phiên thảo luận công khai về xây dựng các dự án luật cũng như về tình hình kinh tế, xã hội, những buổi chất vấn tại hội trường diễn ra sôi nổi, tập trung vào đúng những vấn đề quan trọng, bức xúc được nhân dân rất quan tâm. 

Chính không khí dân chủ trong hoạt động của Quốc hội đã có tác dụng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan tư pháp và cả hoạt động của các cơ quan dân cử ở các địa phương; làm tăng thêm trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước; đồng thời nâng cao tinh thần làm chủ và ý thức trách nhiệm của người dân. 

Nói cách khác, thông qua các hoạt động của Quốc hội, các yếu tố của nền dân chủ đại diện đang được phát huy, sự gắn bó giữa nhân dân với Nhà nước được tăng cường, lôi cuốn nhân dân tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, góp phần quan trọng tạo ra hình ảnh mới về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của nước ta trong con mắt bạn bè quốc tế.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Quốc hội cũng còn những hạn chế: chất lượng một số dự án luật, pháp lệnh chưa cao, quy trình lập pháp còn nhiều công đoạn có thể rút ngắn; hoạt động giám sát hiệu quả, hiệu lực còn thấp, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa làm được nhiều. Việc quyết định các vấn đề quan trọng vẫn phải tiếp tục khắc phục tính hình thức... Tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội nhìn chung vẫn chưa ngang tầm với nhiệm vụ.

Từ những kết quả và các mặt còn hạn chế trong thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội:

Một là, mọi hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phải bám sát đường lối đổi mới của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế, xã hội, đối ngoại, hệ thống chính trị... và do Đảng lãnh đạo để Quốc hội thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật theo hướng phát huy dân chủ, thẳng thắn, nâng cao trí tuệ. Đảng đổi mới sự lãnh đạo là yếu tố quan trọng tạo nên những thành công trong hoạt động của Quốc hội.

Hai là, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và mỗi đại biểu Quốc hội phải thường xuyên gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe và nắm bắt đầy đủ những tâm tư, yêu cầu của người dân, để làm tròn trách nhiệm là người đại diện cho tiếng nói, ý chí và nguyện vọng của nhân dân, Quốc hội thực sự trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.

Ba là, chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách. 

Các kỳ họp Quốc hội được tiến hành dân chủ, các ý kiến trao đổi thẳng thắn, xây dựng thì các quyết định của Quốc hội mới chính xác và có chất lượng cao. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban, tăng cường chất lượng đại biểu Quốc hội có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Bốn là, trong hoạt động lập pháp, việc ban hành được nhiều luật, pháp lệnh là rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là luật, pháp lệnh phải phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi và sớm đi vào cuộc sống. Để tăng được cả số lượng và chất lượng thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động lập pháp phải cao, định hướng chính sách luật phải rõ ngay từ khi dự kiến hoạch định. Đồng thời quy trình lập pháp phải khoa học, chặt chẽ; các tổ chức, các thành viên tham gia và bộ phận tham mưu giúp việc cho các cơ quan này phải có trình độ chuyên môn sâu, thành thạo công việc.

Năm là, trong hoạt động giám sát, cơ sở pháp lý phải cụ thể và mang tính quy phạm chặt chẽ. Nhận thức về tầm quan trọng và nội dung của hoạt động này, từ các cơ quan Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cho đến các cơ quan chịu sự giám sát và trong nhân dân phải đầy đủ và thống nhất. Ngoài ra, việc tăng cường tổ chức bộ máy của các cơ quan Quốc hội, sự chỉ đạo sát sao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và công tác tham mưu phục vụ cũng là những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát.

Sáu là, sự đồng thuận, nhất trí cao, cộng đồng trách nhiệm của tập thể Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, từng cá nhân đại biểu Quốc hội; sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị; sự đóng góp tích cực của cử tri và nhân dân cả nước là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Quốc hội khóa XII hoạt động trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội nhiệm kỳ này là tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định phải "tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội" nhằm xây dựng một Quốc hội vững mạnh, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và có các quyết sách đúng đắn đối với các vấn đề bức xúc đang đặt ra trong cuộc sống.

Kế thừa những kết quả và những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn tổ chức và hoạt động trong thời gian qua, để xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số phương hướng, nhiệm vụ sau đây:

1. Tăng cường năng lực lập pháp, tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và đầy đủ; mỗi văn bản pháp luật, pháp lệnh phải có chất lượng tốt, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn, có tính khoa học và khả thi cao. 

Trên cơ sở kết quả rà soát hệ thống pháp luật hiện hành trong từng lĩnh vực cùng với việc bám sát Nghị quyết của Bộ Chính trị Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và thực tế của đất nước để xác định những lĩnh vực ưu tiên đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ và hằng năm.

Đổi mới hoạt động lập pháp theo hướng luật, pháp lệnh khi ban hành phải áp dụng được ngay vào cuộc sống. Muốn vậy, bên cạnh những đạo luật lớn, cơ bản, cần từng bước nghiên cứu, áp dụng việc xây dựng những dự án luật ngắn gọn, có thể chỉ điều chỉnh một số vấn đề cụ thể, cấp thiết. 

Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định quy trình rút gọn khi ban hành một đạo luật; ban hành một đạo luật mà có thể sửa đổi, bổ sung nhiều luật có những nội dung gần nhau. 

Mở rộng việc lấy ý kiến các đối tượng chịu sự điều chỉnh; cải tiến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân cho có hiệu quả thiết thực. Tổng kết các cách thức thảo luận vừa qua để tiếp tục đổi mới trong thời gian tới.

Tăng cường năng lực hoạt động lập pháp của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm chính về việc thảo luận và xem xét những vấn đề quan trọng trước khi trình Quốc hội thảo luận và biểu quyết. 

Tăng thẩm quyền của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trong quy trình lập pháp, nhất là việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, hướng tới việc thảo luận, cho ý kiến, hoàn thiện văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết sẽ được thực hiện chủ yếu tại các cơ quan của Quốc hội. 

Quy định rõ hơn, cụ thể hơn về cơ chế thực hiện nhiệm vụ của Uỷ ban pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, cũng như trách nhiệm của các cơ quan phối hợp thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh.

2. Về công tác giám sát, cần tiếp tục nâng cao nhận thức và cải tiến cách thức tiến hành để không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm cho chính sách và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước các cấp và các cơ quan tư pháp.

Khắc phục tình trạng giám sát chỉ nặng về chiều rộng mà thiếu chiều sâu; tăng cường giám sát theo chuyên đề, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó lưu ý việc sử dụng ngân sách nhà nước; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. 

Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng quy định cụ thể, tăng tính quy phạm; có chế tài về việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát, trong đó có trách nhiệm trả lời việc xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân, việc thực hiện những cam kết khi trả lời chất vấn. Rà soát, sửa đổi một số nội dung chưa phù hợp liên quan đến hoạt động giám sát trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội... 

Khắc phục tình trạng nể nang, "dĩ hòa vi quý” trong giám sát đi đôi với khắc phục những nhận thức không đúng về hoạt động giám sát. Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn theo hướng tập trung vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc, thúc đẩy việc giải quyết những vấn đề được chất vấn. Cải tiến quy trình, phương thức tiến hành giám sát; xây dựng cơ chế xem xét, giải quyết kiến nghị qua giám sát.

Đề cao vai trò của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trong công tác giám sát, tăng cường giám sát tại các phiên họp của các cơ quan này; nghiên cứu để hướng tới thực hiện việc chất vấn, trả lời chất vấn ở Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Tăng cường các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội. Chú trọng trao đổi thông tin hai chiều về hoạt động giám sát giữa đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội với hội đồng nhân dân địa phương về kết quả giám sát tại địa phương và giữa đoàn đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân với các cơ quan của Quốc hội.

Làm rõ đối tượng giám sát để thực hiện đúng quy định của pháp luật; việc giám sát của các cơ quan của Quốc hội chủ yếu được thực hiện đối với các cơ quan trung ương; kết hợp hài hòa và cải tiến việc tổ chức đi giám sát tại địa phương, để có hiệu quả thiết thực, tránh chồng chéo, trùng lắp.

3. Về quyết định các vấn đề quan trọng, phân định rõ hơn vấn đề nào là quan trọng, chính sách nào thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Xây dựng và thực hiện một quy trình đồng bộ cho việc quyết định các vấn đề quan trọng, từ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn điều ước quốc tế, đến việc quyết định đầu tư xây dựng các công trình quan trọng quốc gia. Xây dựng cơ chế và có phương pháp để bảo đảm thực quyền của Quốc hội theo Hiến định trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đặc biệt là về ngân sách nhà nước. Có cơ chế để các đại biểu Quốc hội nắm bắt được thông tin đa chiều trước khi quyết định.

Các nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng quốc gia cần được xây dựng theo hướng quy phạm hóa, lượng hóa nhiều hơn để có giá trị và tính ràng buộc pháp lý cao hơn; đồng thời phải được các cơ quan hữu quan của Quốc hội thẩm tra trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.

Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa việc tổ chức, tiến hành kỳ họp Quốc hội, nhất là tiến hành các phiên họp toàn thể của Quốc hội theo hướng phiên họp toàn thể chỉ tập trung thảo luận những nội dung mang tính chính sách - pháp luật, kinh tế - xã hội và những vấn đề cần đi đến biểu quyết; các bước thảo luận chuyên sâu được thực hiện tại Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội. Có cách thức để các đại biểu Quốc hội tham gia hoạt động của các cơ quan Quốc hội.

Thực hiện tốt công tác điều hòa, phối hợp trong hoạt động đối ngoại, tránh chồng chéo về thời gian, địa bàn, nội dung nghiên cứu, tìm hiểu ở nước ngoài.

4. Về tổ chức, duy trì số lượng đại biểu Quốc hội như hiện nay nhưng tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng, nhất là đại biểu Quốc hội chuyên trách. Nghiên cứu để từng bước tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách.

Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Tiếp tục xây dựng các tiểu ban trong hội đồng, các ủy ban của Quốc hội đủ mạnh và hoạt động thực chất, hiệu quả. Phát huy tốt hơn nữa vai trò, hoạt động của các đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội, nhất là trong hoạt động giám sát. Có cơ chế thích hợp để đại biểu Quốc hội thực hiện chức năng đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử và nhân dân cả nước.

Tăng cường năng lực của các cơ quan tham mưu, bộ máy giúp việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội theo hướng nâng cao hiệu quả, đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn: tham mưu phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; tham mưu phục vụ về quy trình thủ tục Quốc hội; nghiên cứu, cung cấp thông tin; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện làm việc.

5. Về phương thức hoạt động và các mối quan hệ công tác, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội thực hiện tốt sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nghiên cứu xác định rõ hơn quan hệ công tác giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội theo hướng phát huy mạnh vai trò, trách nhiệm của hội đồng, ủy ban. Cải tiến cách phân công để các ủy ban đảm nhiệm công việc đồng đều, hợp lý hơn. Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, giữa các cơ quan của Quốc hội với hội đồng nhân dân, đoàn đại biểu Quốc hội để góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật.

Quy định và có hướng dẫn cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội, mối quan hệ giữa trưởng, phó đoàn với các đại biểu Quốc hội và mối quan hệ giữa đoàn đại biểu Quốc hội với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương. Cải tiến mạnh mẽ phương thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội để việc làm này có ý nghĩa thiết thực.
 
(Theo dangcongsan.vn)

Các tin khác
Đồng chí Nguyễn Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TAND Tối cao làm việc với lãnh đạo TAND tỉnh.

YBĐT - Năm 2017, với chủ đề "Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì công lý” Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Yên Bái đã tích cực đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác chuyên môn. 

YBĐT - Chiều 8/11, đồng chí Phạm Thị Thanh Trà - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh cùng lãnh đạo đại diện một số sở, ban, ngành của tỉnh đã đi thăm và làm việc tại Nhà máy may của Công ty TNHH Unico Global - Yên Bái tại Khu công nghiệp Âu Lâu, thành phố Yên Bái.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân:

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh như vậy khi bày tỏ ủng hộ bổ sung quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ đã về hưu.

Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu.

Trong khuôn khổ Tuần lễ Cấp cao APEC 2017, sáng 8/11, Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao-Kinh tế APEC lần thứ 29 (AMM 29 ) đã chính thức khai mạc tại thành phố Đà Nẵng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục