Ý kiến tham gia của Hội Luật gia tỉnh Yên Bái

  • Cập nhật: Thứ hai, 4/3/2013 | 4:34:07 PM

YBĐT - Ngoài những vấn đề chung nêu trên, Hội Luật gia tỉnh Yên Bái đã tham gia nhiều ý kiến cụ thể kiến nghị sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý kết cấu, nội dung của 11 chương và 32 điều trong Dự thảo...

Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội khóa XIII, Chỉ thị số 22 - CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 216/KH- UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kế hoạch số 01/KH - HĐND ngày 11/1/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Hội Luật gia tỉnh Yên Bái đã xây dựng Kế hoạch số 04/KH - HLG ngày 16/1/2013 triển khai lấy ý kiến của hội viên.

Tiếp đó, ngày 30/1/2013, Hội Luật gia tỉnh đã phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức hội nghị lấy ý kiến tham gia của các chi hội trực thuộc Tỉnh hội và cán bộ, công chức của Sở về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đến ngày 15 tháng 2 năm 2013, đã có trên 400 hội viên thuộc 18 tổ chức, đơn vị hội trong toàn tỉnh tham gia ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, thể hiện ý chí và tâm huyết của các cấp hội trước sự kiện chính trị lớn của đất nước.

Có thể khẳng định rằng, trên cơ sở kết quả tổng kết việc thực hiện Hiến pháp năm 1992 và các bộ luật có liên quan đồng thời quán triệt và thể chế hóa Cương lĩnh Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta và các văn kiện khác của Đảng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã kế thừa có chọn lọc các quy định của Hiến pháp trước đây còn phù hợp; bổ sung những vấn đề cần thiết đã được thực tiễn chứng minh là đúng và phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

Đồng thời tiếp tục khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Sự thống nhất về quyền lực của Nhà nước dựa trên cơ sở có sự phân định chức năng, quyền hạn, sự phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khẳng định vị trí chính trị và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; là lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Xác định nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đảm bảo phù hợp giữa chế độ kinh tế với chế độ chính trị vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tôn trọng và đảm bảo quyền con người; có sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ cương xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với thái độ nghiêm túc, các cấp hội và đông đảo hội viên đã tham gia nhiều nội dung có tính khoa học và thực tiễn để xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tập trung vào các nội dung chính sau đây:

Về “Lời nói đầu”, cơ bản Dự thảo đã có sự kế thừa nội dung “Lời nói đầu” Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, đảm bảo tính khái quát, nổi bật về truyền thống lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng của Đảng, nhân dân ta và lịch sử lập hiến; định hướng chiến lược của cách mạng, thể hiện được ý chí của nhân dân.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đa số ý kiến thấy rằng, trong 3 vấn đề cơ bản “Lời nói đầu” phải đề cập được đó là: thứ nhất, truyền thống lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng của Đảng và nhân dân ta; thứ hai, lịch sử lập hiến; thứ ba, phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp, nội dung “Lời nói đầu” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 mới đề cập được vấn đề thứ nhất và vấn đề thứ hai, vấn đề thứ ba, phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp chưa được đề cập rõ.

Bởi vậy, để làm rõ vấn đề này, phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp thể hiện rõ ở quy định chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường; quốc phòng và an ninh; cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về Chế độ chính trị (Chương I ), cơ bản Dự thảo đã khẳng định được thể chế chính trị của nước ta (Điều 1), bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (Điều 2), khẳng định và làm rõ hơn bản chất giai cấp và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4), các phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ (Điều 6), nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 8), tư tưởng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc (Điều 9, Điều 10) và chính sách đối ngoại (Điều 12)…

Tuy nhiên, đa số ý kiến đề nghị Hiến pháp cần khẳng định rõ hơn vị trí chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; làm rõ hơn bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ thể của quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, sự phân công, phối hợp, kiểm soát trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp giữa các cơ quan Nhà nước; các hình thức để nhân dân thực hiện quyền dân chủ thực sự dù là dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại diện…

Về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II ), cơ bản Dự thảo tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền này của Hiến pháp 1992 đồng thời đã bổ sung một số quyền mới phù hợp với các điều ước quốc tế và sự phát triển về mọi mặt của đất nước như quyền sống (Điều 21), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 22), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 23), quyền sở hữu tư nhân (Điều 33), quyền đảm bảo an sinh xã hội (Điều 35), quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 44), quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 46).

Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, kết cấu chương này cần phải mạch lạc và chặt chẽ hơn để làm rõ những vấn đề pháp lý của quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Vì xét về bản chất, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền con người và quyền công dân là một thể thống nhất, đều được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ nhưng lại khác nhau về chế độ pháp lý.

Quyền con người là sự thể chế hóa các quyền tự nhiên của con người như quyền sống, quyền hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần, quyền được đáp ứng các dịch vụ của Nhà nước và xã hội…; còn quyền công dân, ngoài quyền con người, Nhà nước quy định thêm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được điều chỉnh bằng hệ thống luật pháp về hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế.

Kết cấu các điều trong chương này cần theo thứ tự quyền con người trước, quyền công dân sau; các quyền về chính trị rồi đến các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Mặt khác, quy định quyền phải có các chế định để đảm bảo thực hiện quyền đó.

Về Kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III), cơ bản Dự thảo đã quán triệt được đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế, xã hội đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở xác định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật (Điều 54), Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (Điều 55), khẳng định quyền tự do kinh doanh (Điều 56), làm rõ sở hữu toàn dân về đất đai (Điều 57); tiếp tục khẳng định giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu trên cơ sở xác định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; bổ sung một số quy định mới về bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đa số hội viên thấy rằng, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, Dự thảo cần xác định rõ hơn vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với các ngành kinh tế trọng điểm (như tài chính, tín dụng, năng lượng, công nghệ cao, sản xuất lương thực…); xác định rõ hơn về sở hữu toàn dân đối với đất đai; giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.

Về Bảo vệ Tổ quốc (Chương IV), cơ bản Dự thảo đã tiếp tục khẳng định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động theo chiều hướng xấu, đe dọa chủ quyền và an ninh quốc gia, Nhà nước cần chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh ở mức độ cao.

Về bộ máy Nhà nước, cơ bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thể hiện được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đặc biệt là làm rõ hơn quyền năng của Quốc hội trên cơ sở bổ sung một số quy định mới về quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản về phát triển kinh tế, xã hội của đất nước (khoản 3, Điều 75), quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 75), quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8, Điều 75); làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước tại các Điều 93 95, của Hiến pháp; làm rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động hành pháp và của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải thể hiện rõ hơn nguyên tắc “phân công, phối hợp, kiểm soát” giữa các cơ quan Nhà nước trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, đặc biệt là mối quan hệ giữa quyền lực được tập trung vào Quốc hội với quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; quyền hạn của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân - với tư cách là một chủ thể trong hoạt động hành pháp, hoạt động tư pháp. Mô hình tổ chức của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, hội đồng nhân dân cấp quận, huyện đang được chỉ đạo cải cách, sau khi tổng kết cần có sự lựa chọn mô hình cụ thể, hợp lý để có quy định trong Hiến pháp lần này.

Ngoài những vấn đề chung nêu trên, Hội Luật gia tỉnh Yên Bái còn tham gia nhiều ý kiến cụ thể kiến nghị sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý kết cấu, nội dung của 11 chương và 32 điều trong Dự thảo, hy vọng có được đóng góp thiết thực nhất của giới luật gia cùng với toàn dân xây dựng Hiến pháp nói riêng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung thực sự “của dân, do dân và vì dân”.

Văn phòng Tỉnh hội Luật gia

Các tin khác
Chế biến nông sản xuất khẩu. (Ảnh minh họa: Danh Lam/TTXVN)

Vòng đàm phán thứ 16 về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã khai mạc tại Singapore ngày 4/3 với sự tham dự của hơn 600 đại biểu đến từ 11 nước tham gia đàm phán.

YBĐT - Các đồng chí lãnh đạo tỉnh kiểm tra tiến độ thi công công trình đường tránh ngập thành phố Yên Bái; Khởi công xây dựng bệnh viện đa khoa tỉnh 500 giường; các ngành, đơn vị triển khai lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đỏi Hiến pháp năm 1992... là những tin tức đáng chú ý

Ông Vũ Mão, nguyên Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đoàn khóa IV

Theo ông Vũ Mão, quy định trong Hiến pháp sửa đổi làm cho tất cả các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau và cùng phát triển...

Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Duy Cường phát biểu kết luận tại buổi làm việc

YBĐT - Chiều ngày 1/3, đồng chí Phạm Duy Cường – Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh đã có buổi làm việc với Sở Nội vụ tỉnh về việc triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2013.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục