Giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào Mông Trạm Tấu

  • Cập nhật: Thứ ba, 26/11/2013 | 2:40:01 PM

YBĐT - Trạm Tấu là huyện vùng cao đặc biệt khó khăn của tỉnh Yên Bái, nằm trong 62 huyện nghèo của cả nước, là huyện có tới 77% dân số là đồng bào Mông sinh sống, dân cư phân bố không đồng đều, trình độ dân trí thấp, một số phong tục, thói quen sinh hoạt không phù hợp chưa được xóa bỏ một cách triệt để, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống diễn ra khá phổ biến.

Cô gái trẻ Giàng Thị Là ở xã Bản Công (huyện Trạm Tấu) đã có tới 3 đứa con. (Ảnh tư liệu)
Cô gái trẻ Giàng Thị Là ở xã Bản Công (huyện Trạm Tấu) đã có tới 3 đứa con. (Ảnh tư liệu)

Đứng trước thực trạng này, Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) huyện Trạm Tấu đã đề xuất xây dựng đề tài khoa học cấp tỉnh ủy quyền cho cấp huyện quản lý "Biện pháp quản lý can thiệp giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đồng bào dân tộc Mông huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái".

Sau hơn 10 tháng triển khai ở 59 thôn, bản thuộc 10 xã vùng cao của huyện Trạm Tấu là: Bản Công, Bản Mù, Xà Hồ, Trạm Tấu, Túc Đán, Phình Hồ, Pá Hu, Tà Xi Láng, Làng Nhì và Pá Lau cho thấy, sở dĩ tình hình tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn tồn tại trên địa bàn các xã vùng cao của Trạm Tấu là do một số cấp ủy Đảng, chính quyền còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào huyện. Việc tổ chức chỉ đạo, quản lý hôn nhân và gia đình chưa thường xuyên liên tục, chưa chỉ đạo các thôn, bản tổ chức giám sát các hộ gia đình có con trong độ tuổi vị thành niên có nguy cơ tảo hôn và kết hôn cận huyết thống.

Nhận thức và chuyển đổi hành vi về Luật Hôn nhân và Gia đình còn nhiều hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo, mù chữ còn cao, chất lượng giáo dục thấp nên việc chuyển đổi từ hôn nhân truyền thống lạc hậu (do gia đình - trưởng họ - người làm chủ hôn - người làm cán sử đứng ra tổ chức hôn lễ là được nhân dân trong thôn bản coi đó là vợ chồng) tại các thôn, bản vùng sâu, vùng xa sang hôn nhân hiện đại theo pháp luật diễn ra chậm chạp.

Các nguồn hỗ trợ cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình đến các thôn, bản còn hạn chế. Cơ chế chính sách trong hôn nhân và gia đình còn một số bất cập, nhất là trong chế tài xử lý những trường hợp vi phạm chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh để răn đe. Vấn đề quản lý những người tham gia thực hiện hoạt động về hôn nhân truyền thống như: chủ hôn, cán sử, trưởng họ, trưởng thôn bản.. còn bị buông lỏng.

Đặc biệt, bản thân người tảo hôn, hôn nhân cận huyết và hộ gia đình còn thiếu kiến thức sinh học, xã hội, thiếu hiểu biết pháp luật, quan niệm hôn nhân truyền thống đã ăn sâu trong tư duy, nhận thức của mỗi người dân, gia đình, họ tộc.

Họ quan niệm cứ người khác họ là lấy nhau được, nghĩa là con anh có thể lấy con cô, con bác có thể lấy con dì, con bác lấy con cậu... hay chỉ là lấy vợ cho con trai để có người làm việc, nên có khi con trai còn rất ít tuổi nhưng bố mẹ đã cưới cho cô vợ hơn hẳn chồng từ 5-10 tuổi cốt để có người lao động...

Để khắc phục tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống của đồng bào dân tộc Mông ở các xã vùng cao của huyện Trạm Tấu, nhóm nghiên cứu đề tài đã đưa ra một số giải pháp, cụ thể:

Nhóm biện pháp về kinh tế nâng cao mức sống cho các hộ đồng bào dân tộc Mông: Điều chỉnh sắp sếp lại đất sản xuất nông, lâm nghiệp; hỗ trợ kinh phí và tổ chức cho các hộ nghèo khai hoang phục hoá mở rộng diện tích đất trồng cây lương thực theo hướng sản xuất bền vững; hỗ trợ về giống, cây trồng, vật nuôi có năng suất cao; hỗ trợ hộ nhận khoán và chăm sóc bảo vệ rừng tự nhiên, rừng trồng sản xuất, giống cây lâm nghiệp theo quy trình trồng rừng; tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình, dự án của Chính phủ đầu tư về cơ sở hạ tầng: điện, đường giao thông, trạm y tế, trường học, thuỷ lợi; khuyến khích việc mở rộng buôn bán, giao lưu hàng hóa từ vùng thấp lên vùng cao. Thực hiện khuyến nông, lâm, ngư hướng dẫn cách làm ăn, phổ cập nghề và quan tâm đào tạo nghề ngắn hạn cho người dân địa phương.

Nhóm biện pháp về văn hoá - xã hội: Xây dựng đời sống văn hoá thôn, bản và hộ gia đình theo hướng tiến bộ, trên cơ sở kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, từng bước đẩy lùi, xoá bỏ các hủ tục trong sản xuất, hiếu, hỷ, sinh đẻ nhiều con...; duy trì tốt phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tổ chức các lớp học xóa mù chữ cho người lớn không biết chữ trong độ tuổi lao động, xây dựng mạng lưới trường, lớp học, mở rộng phát triển trường công lập bán trú dân nuôi, huy động 100% trẻ em trong độ tuổi đến trường, đặc biệt là trẻ em trong các hộ nghèo đồng bào Mông, đào tạo nâng cao nguồn nhân lực trong các hộ đồng bào dân tộc Mông; đầu tư và nâng cấp trạm y tế xã và mua sắm bổ sung các trang thiết bị hiện đại đảm bảo cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh.

Tiếp tục đào tạo bồi dưỡng cán bộ y, dược, tăng cường củng cố mạng lưới y tế cơ sở, đảm bảo 100% thôn, bản có nhân viên y tế - dân số để thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cấp thẻ bảo hiểm y tế để 100% đồng bào dân tộc Mông được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế không phải trả tiền, tổ chức mạng lưới cung cấp  dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình từ huyện đến tận thôn, bản.

Nhóm biện pháp tuyên truyền vận động: Tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trên hệ thống đài truyền thanh, truyền hình huyện, đài truyền thanh xã bằng tiếng Mông, biểu dương những tập thể, cá nhân, hộ gia đình thực hiện tốt Luật Hôn nhân và Gia đình; xây dựng các mô hình can thiệp giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại các xã và câu lạc bộ "Hôn nhân và gia đình".

Nhóm biện pháp lãnh đạo và quản lý: Hàng năm bố trí ngân sách để tập huấn cho hệ thống làm công tác DS/KHHGĐ, nhất là các cộng tác viên dân số cơ sở, ngoài tuyên truyền về KHHGĐ, cần trang bị thêm kiến thức và kỹ năng tuyên truyền về tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của  cấp ủy, chính quyền địa phương trong tổ chức, quản lý, thực hiện hôn nhân và gia đình theo pháp luật; nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác tư pháp trong quản lý hôn nhân và gia đình.

Nhóm biện pháp tạo cơ hội cho đồng bào dân tộc Mông: Tạo điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn khoa học kỹ thuật, các mô hình phát triển kinh tế, có việc làm ổn định thông qua chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp tạo ra các vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Loại bỏ các rào cản hiện hữu trong tình yêu, hôn nhân truyền thống của vị thành niên, thanh niên, gia đình, cộng đồng giúp họ thoát khỏi mặc cảm, tự ti, phấn đấu thực hiện hôn nhân hiện đại.

Nhóm biện pháp tạo ra sự an toàn cho các cặp vợ chồng, hộ gia đình đồng bào dân tộc Mông: Chú trọng quy hoạch xây dựng cụm dân cư an toàn, kinh tế phát triển bền vững, di chuyển hộ dân, cụm dân cư ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở đất, lũ quét. Trang bị những kỹ năng tạo nên sự an toàn trong sản xuất, trong sinh hoạt. Đảm bảo giữ vững an ninh - quốc phòng, đẩy mạnh phòng chống tội phạm tại thôn bản, đảm bảo tốt an ninh lương thực, kịp thời cứu đói, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.

Đỗ Văn Sơn

Các tin khác

Ngày 22-10-2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 138/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.

Hai bé trước khi phẫu thuật.

Hôm nay, sau 14 tháng chào đời trong tình trạng dính nhau ở tim, gan và đường mật, hai bé trai quê ở Ninh Thuận sẽ được các bác sĩ mổ tách rời tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP HCM.

Thêm một đợt không khí lạnh tăng cường sẽ tác động đến miền Bắc vào sáng 27/11, gây rét đậm, có nơi 13 độ C.

YBĐT -  Ngày 25/11, Chi nhánh Viettel Yên Bái – Tập đoàn Viễn thông Quân đội tổ chức chương trình “khám, tư vấn sức khỏe, tặng quà cho nhà trường và các cháu học sinh nghèo vùng cao” tại Trường Tiểu học và THCS xã Sùng Đô, huyện Văn Chấn, Yên Bái.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục