Năm 2020, trên địa bàn tỉnh Yên Bái ghi nhận 46 ca mắc sởi/sốt phát ban nghi sởi tại 4/9 huyện, thị xã, thành phố (Mù Cang Chải 42 ca; Trấn Yên 2 ca; thành phố Yên Bái 1 ca; Yên Bình 1 ca), giảm 90,2% so với năm 2019 (470 ca mắc); ghi nhận 1 ổ dịch sởi tại bản Háng Tày, xã Chế Tạo, huyện Mù Cang Chải, không ghi nhận ca mắc Rubella.
Hầu hết, các trường hợp mắc sởi đều chưa được tiêm phòng. Đối tượng dễ mắc sởi nhất là trẻ nhỏ vì cơ thể trẻ dễ cảm nhiễm với bệnh. Tuy nhiên, người lớn nếu chưa tiêm vắc xin sởi hoặc chưa bị mắc sởi trong quá khứ thì cũng dễ mắc nếu tiếp xúc với nguồn bệnh. Theo thống kê, ca mắc là trẻ dưới 15 tuổi, chiếm 50%, trong đó, trẻ nhỏ dưới 5 tuổi chiếm 33,3%.
Qua theo dõi dịch tễ, dịch sởi có chu kỳ 4 - 5 năm quay lại một lần. Tại miền Bắc, năm 2013 - 2014, đã xảy ra vụ dịch sởi lớn, trong đó, có Yên Bái do lũy tích những trẻ chưa được tiêm phòng sởi. Điều đó cho thấy, nếu công tác tiêm chủng mở rộng không được tốt thì nguy cơ xảy ra dịch là rất cao.
Vắc xin sởi - Rubella là vắc xin phối hợp để phòng đồng thời hai bệnh sởi và bệnh Rubella. Đây là vắc xin sống, giảm độc lực. Vắc xin sởi - Rubella hiện đang sử dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng do Việt Nam sản xuất dưới dạng bột, đông khô, có màu vàng trắng kèm theo lọ dung môi pha hồi chỉnh, vắc xin đóng 10 liều/lọ trong lọ thủy tinh màu nâu, khi tiêm bắt buộc phải pha hồi chỉnh trước khi sử dụng.
Bệnh sởi và Rubella không có thuốc điều trị đặc hiệu. Tiêm vắc xin sởi - Rubella là cách duy nhất phòng bệnh chủ động và hiệu quả. Cũng như các vắc xin khác, tiêm vắc xin sởi - Rubella không có hiệu quả phòng bệnh tuyệt đối 100%. Đáp ứng miễn dịch còn tuỳ thuộc vào tuổi tiêm vắc xin, loại vắc xin, đặc điểm miễn dịch, tình trạng sức khoẻ của từng người, chất lượng vắc xin và kỹ thuật thực hành tiêm chủng.
Cũng như các vắc xin khác, vắc xin sởi - Rubella là vắc xin an toàn, tuy nhiên, những phản ứng phụ có thể gặp là đau, sưng và ban đỏ tại chỗ tiêm. Phản ứng thường nhẹ và hết sau 1 - 4 ngày, những phản ứng toàn thân như sốt, mỏi mệt, khó chịu, quấy khóc, ho, đau họng, sổ mũi, tiêu chảy cũng có thể xảy ra ở một vài trẻ em, thường kéo dài từ 1 - 3 ngày rồi tự khỏi mà không cần điều trị.
Tuy vậy, rất nhiều bà mẹ e ngại những phản ứng sau tiêm này mà không tích cực, chủ động đưa con đi tiêm chủng. Trên thực tế, sử dụng khoảng 4 triệu liều vắc xin sởi - Rubella do Việt Nam sản xuất từ đầu năm 2018 tới nay, chưa ghi nhận bất kỳ trường hợp phản ứng nghiêm trọng nào.
Theo hướng dẫn của nhà sản xuất, rất hiếm gặp các trường hợp nặng như co giật, suy hô hấp, hạ huyết áp, viêm não hay giảm tiểu cầu với tỷ lệ chưa đến 1/triệu liều. Vì vậy, để tăng tỷ lệ tiêm chủng, đảm bảo đạt tỷ lệ phòng dịch bệnh thì cần tăng cường công tác truyền thông về lợi ích của việc tiêm chủng vắc xin phòng bệnh.
Năm 2020, tỷ lệ tiêm chủng phòng bệnh sởi cho trẻ dưới 1 tuổi đạt 98,3%, tỷ lệ tiêm chủng phòng bệnh sởi - Rubella cho trẻ 18 - 24 tháng đạt 97,1%.
Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm túc quy trình về tiêm chủng theo đúng quy định của Bộ Y tế từ khâu tiếp đón, khám sàng lọc, thực hiện tiêm, theo dõi phản ứng sau tiêm tại cơ sở tiêm chủng và đặc biệt là hướng dẫn các bà mẹ theo dõi, phát hiện các dấu hiệu bất thường như quấy khóc kéo dài, bỏ bú, sốt cao co giật, tím tái… để có thể đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời.
Trước diễn biến phức tạp, để phòng, chống bệnh sởi, Bộ Y tế khuyến cáo các bà mẹ chủ động thực hiện tiêm chủng vắc xin, đây là biện pháp phòng bệnh đặc hiệu và tốt nhất phòng bệnh sởi.
Bệnh sởi rất dễ lây, do đó không cho trẻ đến gần, tiếp xúc với các trẻ nghi mắc bệnh sởi; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng khi chăm sóc trẻ; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng, mắt và răng miệng cho trẻ hàng ngày; tăng cường dinh dưỡng cho trẻ; ở nhà trẻ, mẫu giáo, trường học nơi tập trung đông trẻ em cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, thông thoáng, thường xuyên khử trùng đồ chơi, dụng cụ học tập và phòng học bằng các chất sát khuẩn thông thường.
Khi phát hiện có các dấu hiệu sốt, ho, chảy nước mũi, phát ban cần sớm cách ly và đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám, tư vấn điều trị kịp thời. Không nên đưa trẻ điều trị vượt tuyến khi không cần thiết để tránh quá tải bệnh viện và lây nhiễm chéo trong bệnh viện.
Trần Minh