Rau tập tàng
- Cập nhật: Thứ tư, 2/7/2014 | 2:40:07 PM
YBĐT - Giữa những ngày hè oi nồng, ngồi đợi buổi chiều mãi vẫn chưa tắt nắng, mơ mãi vẫn chưa có một cơn gió nào mát rượi đến tận chân tóc, lại thấy thèm một bát canh rau tập tàng nấu cua, nấu hến của ngày xưa. Và trời ơi… nhớ!
Ảnh minh họa.
|
Rau tập tàng là rau gì? Cái tên nghe đã thấy nghèo, thấy thương, thấy buồn, thấy quê mùa, tội nghiệp. Tưởng như gặp một mẹ già ôm rổ rau con con ra chợ, nào là rau dền cơm, ngọn ớt, rau sam, rau rệu, rau má... tất cả rối bung, quấn quýt vào nhau, chẳng bán mớ, bán bó, bán lạng, bán cân mà nhiều khi bán “quạ” một vài nắm, vài dúm nho nhỏ, đem về nấu cua, nấu tôm, nấu hến... Cứ gọi là mát ngọt đậm đà, cả nhà xuýt xoa, cùng nhau chan húp! Người mua có người rộng rãi, có kẻ cò kè bớt một thêm hai, mẹ già cười hiền, vơ tất cả vào bán, bảo rau của trời ấy mà, vài đồng dưa mắm cũng bõ công.
Rau tập tàng, thứ rau rẻ tiền nhưng ngọt lành của làng quê giờ cũng đã chen chân vào phố thị để trở thành đặc sản, như nàng Tấm váy đụp yếm vá có ngày bỡ ngỡ lạc vào cung vua, phủ chúa. Vẻ giản dị, thanh nhã bỗng dưng lại được ưa chuộng. Sau bao sơn hào hải vị, mật mỡ ngán ngấy bỗng lại thấy thèm một bát canh suông cho nhẹ người lạ vị... Thế là tập tàng lên phố, như cơm niêu, cá tộ ngày nào. Có bao người xa quê, bỗng một ngày thấy bát canh lạ lạ, có chợt hỏi canh gì, rồi nhớ rau tập tàng đã nuôi lớn mình ngày xưa, để bỗng nhớ câu ca này:
Cầm cần rau cá ngược xuôi
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già
(Ca dao)
Mẹ già giờ cũng lên phố rồi, ngồi trong phòng điều hòa, bê tông kín mít, mà hồn quê vẫn cứ phơ phất ở phương nào với bãi bờ, ao chuôm, đồi nương, gò rẫy. Những thứ rau bán trong siêu thị đắt tiền lạ vị mà lắm khi đau ốm chẳng làm sao đưa nổi một thìa cơm, chỉ thèm tương cà, canh suông, mắm tép. Cháu con nhăn mặt nhíu mày biết tìm đâu ra. Mẹ già thở dài nghe gió hiu hiu thổi đồng xa...
Rau tập tàng! Trong kí ức của tôi thì đó là những thứ rau người ta không trồng bao giờ, mọc hoang dại trong vườn, ngoài bờ, trên nương, trên đồi, nên rau tập tàng cũng hay được gọi là rau dại, rau rừng. Rau mọc tự nhiên, cứ đến mùa lại lên nhưng nhiều khi lại giúp người ta vượt qua những cơn đói lòng lúc giáp hạt “tháng ba, ngày tám”.
Rau tập tàng ngày trước thường hái về chăn lợn, khi rau thật non hoặc lúc thiếu rau người mới hái ăn. Cha mẹ tôi thường kể về những ngày tháng sinh viên thời trẻ đói quay đói quắt. Những nắm rau dại, rau rừng luộc vội chấm với dúm muối ớt đã giúp ấm bụng và nuôi dưỡng giấc mơ lên đường của những trí thức cổ cồn “đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần” ngày xưa...
Rau tập tàng mùa nào cũng có. Mùa hè, khi mưa đến, rau dền cơm, rau sam, rau rệu, rau má... non mỡn, xanh mởn. Thả vào nồi nước, sôi lại là chín, vừa mềm vừa bùi. Mùa đông, có rau cải đồng, xương cá, rau muối... mọc xen lẫn với luống ngô, luống đỗ, thả vào nồi nước lẩu, vớt lên xanh bóng, vừa đậm vừa ngọt. Hay những khi vừa đốt nương xong, sau vài cơn mưa, rau tàu bay, cỏ lạc vừng mọc lên xanh ngút mắt...
Có rất nhiều loại rau tập tàng. Ai thích vị ngăm đắng có rau đắng cảy, tầm bóp, cải đồng, ngọn đu đủ... Ai ưa ngọt bùi có rau xương cá, dền cơm, rau rệu, sâm đất... Ai thèm chua mát có rau sam, chua me, rau sắn muối chua... Chan chát có ngọn khoai lang. Mùi hăng hắc có rau tàu bay. Nhơn nhớt có rau dớn... Cứ đi một vòng bờ bãi thế nào cũng được lưng lưng một mê nón đem về. Nhà nghèo thì nấu canh suông, sang hơn thì nấu canh rau tập tàng với cua, với hến hay thịt nạc băm, hoặc tôm hoặc ngao... Mùa nóng, mùa lạnh ăn vào đều thấy ngon miệng, đưa cơm.
Có những thứ rau tập tàng không hay được dùng để nấu canh mà hay luộc hoặc xào như tầm bóp, đắng cảy, rau sắn... Tôi nhớ mãi một mùa coi thi vào Nghĩa Lộ tháng 6, được ngửi mùi rơm mới thơm nồng, được ăn cơm gạo mới và nhất là được thưởng thức hai món rau rừng đặc sản của xứ Mường Lò “gạo trắng, nước trong”: rau dớn và rau ban (ngọn hoa ban). Rau dớn ngòi Thia được phơi hơi héo rồi đem xào tỏi, ăn vào nhớ mãi không quên và cũng là một vị lạ so với món nộm rau dớn ở đất ngọc Lục Yên. Còn rau ban, món rau lạ lùng, vì với tôi, nhắc đến cây ban là chỉ nhớ đến một loài hoa đẹp đặc trưng của vùng Tây Bắc chứ không nghĩ ngọn và lá non của nó có thể ăn được như một thứ rau. Thế mà, luộc hay xào lên lại ngọt và bùi lạ lùng.
Có phải thứ rau này đã từng “cứu đói” bộ đội ta trong “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt” của chiến dịch Điện Biên Phủ năm nào không? Hay là rau tàu bay – cái tên phải chăng do những người lính hồn nhiên hóm hỉnh đặt hay khi hoa nở, hạt bay tung theo gió giống chiếc dù – đã là một trong những kỉ niệm đáng nhớ nhất của đời lính trong hai cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc năm nào?
Anh đã sống những tháng năm hào hứng
Ăn rau tàu bay, hát vỗ nhịp vào báng súng
(Về làng - Trần Đăng Khoa)
Cơm gạo mốc, mà tưởng cơm gạo nếp
Rau “tàu bay” không muối cũng thành canh
(Đêm tháng năm - Văn Thảo Nguyên)
Rau tập tàng! Cái tên còn gắn với những người nghèo, chịu thương chịu khó. Như ngày xưa Lão Hạc của Nam Cao đã từng: “Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc...”. Những thứ rau dại, rau rừng với sức sống mạnh mẽ vượt lên mọi bão giông, thời tiết khắc nghiệt đã rất hữu ích khi giúp người nông dân vượt qua những tháng ngày đói kém. Đến mức ông bà ta đã dặn con cháu rằng:
“Đói ăn rau mưng rau má, đừng ăn quấy quá mà hại vào thân”
Tôi vẫn nhớ có lần được đến một lớp học bán trú vùng cao, tận mắt nhìn thấy những đứa trẻ nếu ở thành phố vẫn thuộc diện “ăn chưa no, lo chưa tới” phải tự mình gùi củi nấu cơm mà thấy thương. Bữa cơm của các em chỉ có cơm trắng với măng ớt hay rau rừng luộc chấm muối. Nhưng ước mơ cái chữ thì vẫn luôn cháy bỏng trong mỗi đôi mắt nhìn đen láy...
Tập tàng ơi! Thân hoang dại, phận mong manh mà đã nuôi bao người khôn lớn, từ gánh rau mẹ trồng, từ nắm rau em hái, từ ao chuôm, bờ ruộng, từ nương rẫy, gò bãi... mà trưởng thành, vững chãi, đi xa... Thế nên, chiều nay nhìn bát canh rau tập tàng bốc khói trên mâm mà lòng bỗng thấy rưng rưng lạ...
Nguyễn Thị Thu Hiền
Các tin khác
Ngày 1-7, tại TP Hồ Chí Minh, tạp chí Vietnam Heritage trực thuộc Hội Di sản Văn hóa Việt Nam chính thức phát động cuộc thi ảnh “Di sản Việt Nam - Vietnam Heritage Photo Awards 2014”.
YBĐT - Bạn đọc biết nhiều đến tác giả Dương Soái kể từ khi bài thơ “Gửi em ở cuối sông Hồng” được cố nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc và một số ca sĩ thành danh đã chọn trong chương trình biểu diễn của mình. Cũng từ đó anh lần lượt xuất bản 3 tập thơ: Đất lạ - năm 1991; Gửi em ở cuối sông Hồng - năm 1998 và gần đây là tập Giao mùa.
Tối 1-7, diễn viên Trương Ngọc Ánh sẽ lên đường đến TP Saint Malo (Pháp) để tham dự Liên hoan phim Việt Nam tại Pháp.