“Cánh chim rừng không mỏi” – tâm sự của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng
- Cập nhật: Thứ ba, 14/6/2011 | 2:19:07 PM
Nhân ngày nhà báo Việt Nam 21-6, NXB Thanh Niên và Công ty sách Phương Đông đã ấn hành tập phóng sự, bút ký “Cánh chim rừng không mỏi” của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng. Cuốn sách gồm 17 bài viết kèm nhiều hình ảnh minh họa sinh động, trong đó có nhiều bài dài 3-4 kỳ, được tác giả viết trong khoảng 3 năm trở lại đây.
|
Mỗi bài báo phản ánh một góc xã hội
Đây chỉ là một phần nhỏ những trang viết của Đỗ Doãn Hoàng trong thời gian qua. Trong cuốn sách này, tác giả và NXB Thanh Niên chỉ chọn những bài tạo được một số tác động xã hội sau khi nó được in ra, và sự thực mà bài viết chuyển tải được xã hội chung tay giải quyết theo hướng tích cực.
Thông điệp của tác giả qua tập sách là: tác động xã hội của các bài viết, bài điều tra, phản ánh hiện thực xã hội một cách tâm huyết, đến đầu đến đũa. Những đoạn Hồi âm, Chuyện kể thêm được in cuối mỗi phóng sự, bút ký đã thể hiện điều đó.
Về điều này, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng tâm sự: “Tôi muốn chứng minh, mỗi bài viết cần hướng tới các tác động xã hội cụ thể, tích cực, chân chính của nó. Và sau khi in mỗi bài, tôi sẽ kể về hồi âm bài viết đó. Ví dụ 350 triệu gửi tặng bé Thơ, nhân vật trong “Thơ ơi, em đừng chết”, kèm theo là cuộc vận động cứu tất cả những đứa trẻ không đáng phải chết như Thơ. Hay như việc cứu các bé gái 6 tuổi đã nghiện, đã bị bố mẹ đem ra làm mồi nhử xin tiền du khách, các cháu và bố mẹ nghiện của các cháu sống trong hang núi (Góc tăm tối ở thiên đường du lịch Sa Pa). Việc nhà báo tổ chức mổ chân cho người có cái chân voi to nhất Việt Nam (Hai mươi năm kéo một cái chân voi); nhà báo đưa người cựu binh tận khổ bị vặn 9 cái răng bay 4 chuyến từ Bắc vào Nam, vượt biển ra đảo Phú Quốc thăm chiến trường xưa, gặp lại viên cai ngục tàn ác, nhà báo vận động 80 triệu đồng tặng ông Tằng (Hóa giải 40 năm thù hận)… Mỗi bài đều có hồi âm, số tiền ủng hộ, phong trào vận động, sự thay đổi cách nghĩ cách làm, thay đổi hiện thực… một cách cụ thể, có ngày giờ, có tên người thực hiện, thậm chí trích cả công văn của Thủ tướng, Phó Thủ tướng hay các cơ quan Quốc hội, các bộ ban ngành, các UBND tỉnh rất cụ thể”.
Mảng đề tài mà tác giả tâm huyết, là vấn đề ở vùng sâu vùng xa, nơi mà độc giả ít được biết đến (các bài: Góc tăm tối ở thiên đường du lịch Sa Pa, Phận đèn dầu, Cánh chim rừng không mỏi, Choáng váng với rừng ở Mường Nhé, Khóc rừng trên nóc nhà Đông Dương); những góc khuất của lịch sử, những câu chuyện xưa cảm động, nhiều ý nghĩa mà vì nhiều lý do công chúng báo chí còn hầu như chưa biết đến nhiều (Bom tấn và lương tâm người đang sống, Khúc bi tráng Hố Đá Bàn, Chuyện ít biết về dòng dõi quan lang xứ Mường). Đặc biệt, tác giả hướng tới nhiều với những câu chuyện nóng của xã hội, như thời này mà đảng viên, giáo viên chủ nhiệm lớp, 10 năm trong nghề vẫn hưởng lương 500.000 đồng/ tháng (Lương giáo viên 500 nghìn đồng)...
Tác giả tỏ ra có nghề và tâm huyết, làm được khá nhiều việc để “giải quyết” các vấn đề hấp dẫn, xúc động, có ý nghĩa, bị chìm khuất một cách không nên của lịch sử. Ví dụ như chuyện công bố công trạng của dòng dõi quan lang xứ Mường, họ theo cách mạng lập nhiều chiến công, được Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp hết lời ca ngợi (tư liệu, thư từ, tranh ảnh vẫn còn đến nay) – trong khi dòng dõi con cháu họ bị kỳ thị một cách đau lòng, không ít các tác phẩm nghệ thuật làm xiên xẹo hình ảnh đẹp đó, khiến nhiều người rầu lòng (phóng sự được giải báo chí Quốc gia in trong tập sách “Chuyện ít biết về dòng dõi quan lang xứ Mường”).
Đỗ Doãn Hoàng cũng là người đầu tiên viết phóng sự về cuộc đời “nhân vật lịch sử” từng được ca tụng, lưu truyền rất nhiều, đó là Hoa hậu xứ Mường, hóa ra bà là người xa hoa tột độ, lãng mạn và quên mình vì tình yêu, song cuối đời là chết nghèo khổ trong các cơn nghiện ma túy, bán thổ cẩm kiếm ăn ở chợ vùng sơn cước (Lãng mạn với hoa hậu xứ Mường).
Có lẽ, phóng sự ấn tượng nhất trong tập sách, là “Hóa giải 40 năm thù hận”, tác giả đã kỳ công tìm viên cai ngục vào loại tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam đang sống ở đảo Phú Quốc, lén phỏng vấn và chụp ảnh. Tác giả cũng đi tìm các nạn nhân đau khổ bị Bảy Nhu (tên của viên cai ngục) bẻ cả chùm răng. Bài báo quyên góp tiền cứu các nạn nhân bệnh tật, đói nghèo đó. Rồi anh đích thân đem nạn nhân bị bẻ răng ra gặp viên cai ngục, hai bên khóc cười... rồi hóa giải thù hận. Bởi lịch sử thời đó, nó lầm than thế, các ông già cần tha thứ cho nhau, nhưng lịch sử cũng cần phải biết câu chuyện đó. Và Đỗ Doãn Hoàng là người đầu tiên kể lại câu chuyện một cách ly kỳ, hấp dẫn và thể hiện trách nhiệm xã hội và lòng nhân ái của một nhà báo.
Những trang viết là điều tâm huyết
Một cách thật thà nhất, tôi muốn nói rằng: phải mất gần chục năm lúc nào cũng ấp ủ để viết, viết liên tục, xuất bản cả chục cuốn sách rồi, mấy năm gần đây, tôi mới thấm thía được cái đích đến cuối cùng của hoạt động báo chí mà mình xả thân tham gia, nó là cái gì. Tôi đã không ngại khó, không ngại sai lầm hay ngại mình thật thà đến lố bịch, tôi đã hết lòng với từng con chữ của mình, ở nhiều tờ báo được coi là lớn, là có số lượng phát hành lớn vào bậc nhất ở Việt Nam. Tôi đã nhọc nhoài làm tốt trang công tác đoàn, trang văn hóa, trang phóng sự - ghi chép, trang an ninh trật tự…. Nhưng dường như tôi cứ làm mà chưa bao giờ dừng lại tự hỏi: bài viết của mình sẽ đi về đâu, sẽ đem lại cái gì sâu thẳm nhất hoặc đáng để đón chào nhất (trong chừng mực năng lực mà tôi có) cho công chúng báo chí? Đã vài lần (chứ không phải ít), rời một cơ quan báo chí, tôi đã khóc nức nở nhiều ngày, vì không nỡ rời một không gian, một sự thân gần như máu thịt mà mình đã gắn bó, mình đã cống hiến, đã đổ mồ hôi và đã sẵn sàng để đổ máu vì nó (khi làm các phóng sự quá nguy hiểm), tại sao mình lại tự nguyện ra đi? Mình đã sống những ngày, mà mỗi sớm báo phát hành, không thấy bài của mình ở trang nhất, là ngày đó mình không ăn ngon ngủ yên, cái sự đắm say đó, liệu có còn theo mình trong những chặng đường đầy bất trắc phía trước hay không? Có khi, chuyển khỏi một cơ quan, ngồi lục lại máy vi tính của mình (trước đó, bài nọ gọi bài kia, chuyến đi nọ gọi chuyến đi kia, tôi không bao giờ dừng lại để… ngắm một cái gì, kể cả mái tóc, hàm răng hay áo quần của mình); tôi thử thống kê các tin bài mình đã viết trong mấy năm đó xem sao. Và, tôi tá hỏa, tôi xấu hổ, tất cả những điều tôi viết đó, nó vô cùng cập nhật và hữu dụng cho trang báo của tôi, nhưng nó không còn đúng với hiện thực khi tôi đọc lại nữa. Quan trọng hơn, là tôi cũng không muốn đọc lại nữa, bởi tôi đã từng “thơ ngây” hơn tôi tưởng rất nhiều. Có thể đó chỉ là cảm giác của một người quá mong manh. Vâng, báo chí là thứ mà nhiều khi người ta viết để cho độc giả đọc và quên đi... để chờ đọc thông tin nóng hổi khác. Với các trang báo “tờ sau đè (chết) tờ trước”, việc bọn chúng bị rọc ra ngay trong ngày phát hành để gói xôi hay bọc mẩu bánh mỳ cho đám “mèo con đi học”, đôi khi là vinh dự của kẻ đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Nhưng với tôi, từ nhỏ tôi đã ấp ủ viết, đã muốn viết, đã muốn viết cái thể loại bài viết nào đó nó đằm sâu hơn, nó để cho tôi có thể lưu giữ được những “mảnh vỡ ký ức” nào đó cho mình. Cho nên, tôi không muốn như vậy…
Từ bấy, tôi bắt đầu vừa tổ chức các trang phóng sự vừa nghĩ về nghề, vừa viết… hồi ký. Vừa làm vừa viết nhận xét, lý luận về nghề báo cho một số tờ báo, tạp chí chuyên ngành báo chí (không dám ký tên thật, vì tôi vẫn là một cậu bé tham gia viết báo); tôi cũng tham gia thỉnh giảng, nói chuyện nghiệp vụ ở một số trường đào tạo báo chí, một số tòa soạn và Hội nhà báo địa phương (với lời mời của Hội Nhà báo VN và các tỉnh). Những va đập, trăn trở đó, đã khiến tôi nhận ra rằng: bài báo - đặc biệt là phóng sự, điều tra, ghi chép, bút ký - nó cần phải hướng tới nhiều hơn những tác động xã hội tích cực mà người viết nào cũng hằng ấp ủ.
Tất nhiên, một phóng sự hay, không thể chỉ là cái việc người viết nói ra một sự thật bỏng rẫy nào đó, rồi cứ thế xuống dòng, chuyển sang phần kiến nghị cơ quan chức năng phải xử lý dứt điểm vụ việc (như thế, bài viết sẽ giống một cái đơn khiếu nại tố cáo). Tất nhiên, một bút ký, ghi chép, phóng sự hay ho, vẫn có thể là một bài du ký, tả toàn mây gió trăng hoa, kể toàn chuyện tôi đã leo núi, đã lặn xuống đáy biển, đã gặp những tộc người kỳ lạ; hoặc tôi đã xâm nhập, giả đò “bay” cùng dân chơi thuốc lắc, cùng cánh ca ve hay những tội đồ của lòng nhân ái nào đó... Nữa: chúng ta hoàn toàn có thể viết dài kỳ về chân dung một người tốt hoặc xấu đến độ khó tin; một con người hoặc những con người kỳ lạ khiến độc giả (khán, thính giả) phải ngạc nhiên “mắt chữ ô miệng chữ o” (mà tuyệt nhiên không cần “nóng bỏng” hay “bức xúc”, kiến nghị gì). Thực tế là tôi đã nhiều năm tung hoành với thể loại phóng sự khám phá các miền đất và nhân vật kỳ lạ cả ở phần tốt và ở những góc xấu của Đời.
Tuy nhiên, chuyện lạ mãi rồi nó cũng hết, bí ẩn mãi rồi cũng được trơ trật ra trước “ba quân tướng sỹ”; và nữa: nghĩ cho cùng thì chẳng ai thích du sơn du thủy cả đời, xem “Chuyện lạ Việt Nam” suốt ngày; cái mà cuộc sống hướng đến đích thực: là những câu chuyện dân sinh cụ thể. Cái mà công chúng trông chờ nhiều nhất ở nhà báo, có lẽ vẫn là việc nhà báo xông pha, nhà báo sử dụng cái mà (cửa miệng) chúng ta vẫn quen gọi là quyền lực thứ tư của mình để làm cái gì đó thể hiện trách nhiệm công dân chân chính, trách nhiệm xã hội của người cầm bút. Chia tay những võ sư chân trần bay qua sông, những tộc người kỳ dị ở nơi hoang thẳm, những anh chàng thản nhiên uống bát mỡ lợn đang sôi sùng sục giữa chợ đời, tôi trở về với những vấn đề nóng bỏng, cụ thể, mà tôi nghĩ rằng nó có tầm ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày đông đảo bà con mình hơn.
(Theo HNMO)
Các tin khác
Câu chuyện mới của “King Kong” sẽ xoay quanh điểm nhìn của chính "vua khỉ", với những cảm xúc hoang dã nhất.
Cả 3 ca sĩ Tùng Dương, Đàm Vĩnh Hưng và Nguyên Vũ đã cùng đoạt giải Album vàng của năm tại Gala Album vàng mùa thứ 4 tổ chức tối 13-6 tại Nhà thi đấu Nguyễn Du, TP.HCM.
Đúng với dự đoán, sen hồng tiếp tục vượt lên dẫn đầu cuộc bình chọn ngôi vị quốc hoa, diễn ra tại TP HCM từ ngày 9 đến 12/6. Với kết quả đứng nhất bảng bình chọn ở cả 3 miền, sen hồng trở thành quốc hoa.
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch vừa ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cuộc thi “Hoa hậu các dân tộc Việt Nam lần 2 năm 2011” do ông Hồ Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL làm trưởng ban và ông Hoàng Xuân Lương, phó Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc làm phó trưởng ban để chỉ đạo triển khai cuộc thi này.