Đồng chí Đỗ Đức Duy - Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái tham luận tại Đại hội XIII: Phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

  • Cập nhật: Thứ năm, 28/1/2021 | 10:29:23 AM

YênBái - Sáng 28/1, đồng chí Đỗ Đức Duy - Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái đã có bài phát biểu tham luận tại Đại hội XIII của Đảng. Báo Yên Bái xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc!

Đồng chí Đỗ Đức Duy - Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái phát biểu tham luận tại Đại hội XIII của Đảng, sáng 28/1.
Đồng chí Đỗ Đức Duy - Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái phát biểu tham luận tại Đại hội XIII của Đảng, sáng 28/1.

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa Đại hội!

Giảm nghèo, chăm lo cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội là một chủ trương lớn, xuyên suốt, là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; kết quả xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành tựu nổi bật của thời kỳ đổi mới, góp phần tích cực phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Được sự đồng ý của Đoàn Chủ tịch, Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái xin tham luận với chủ đề "Phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. 

Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, diện tích tự nhiên gần 6.900 km2, dân số trên 82 vạn người, với hơn 30 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 57,4%; khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm gần 80% dân số và 62% lao động. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện vùng cao đặc biệt khó khăn (30a) là Trạm Tấu và Mù Cang Chải, với trên 90% đồng bào dân tộc thiểu sổ, chủ yếu là người Mông; có 173 xã, phường, thị trấn, trong đó có 53,3% số xã đặc biệt khó khăn và 34,2% số thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Cũng như nhiều tỉnh miền núi phía Bắc, Yên Bái bước vào thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 32,21%, cao thứ 6 toàn quốc; trong đó phần lớn tập trung tại các địa bàn vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, riêng tại 2 huyện 30a có tỷ lệ hộ nghèo trên 75%, thuộc nhóm các huyện nghèo nhất cả nước.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là do: địa hình đồi núi chia cắt mạnh, lại thường xuyên chịu tác động của thiên tai; hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng bộ, giao thông đi lại khó khăn; diện tích đất canh tác hạn chế, người dân còn thiếu tư liệu sản xuất; trình độ dân trí không đồng đều, chất lượng nhân lực thấp, ở một số nơi đồng bào dân tộc vẫn còn tập quán canh tác lạc hậu, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật; hệ thống thể chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, chưa đáp ứng được nhu cầu. 

Bên cạnh đó, tư duy, nhận thức và công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền trong công tác giảm nghèo còn hạn chế, bất cập; một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không có ý chí vươn lên thoát nghèo.

Trong bối cảnh đó, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã nỗ lực đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực, sáng tạo, hiệu quả. Cụ thể:

Một là, quán triệt, triển khai nghiêm túc, kịp thời các chủ trương, chính sách, chương trình của Trung ương về giảm nghèo; cụ thể hóa thành chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong các nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh. 

Hằng năm, Tỉnh ủy Yên Bái đều ban hành Chương trình hành động lãnh đạo thực nhiệm vụ chính trị của năm và Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo trong năm  theo phương châm "giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm”. 

Trong đó, giao chỉ tiêu giảm nghèo cho từng huyện, thị, thành phố; đồng thời, phân công nhiệm vụ, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp cấp tỉnh phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương để trực tiếp tuyên truyền, vận động, hỗ trợ, giúp đỡ từ 20-50 hộ nghèo/năm (có địa chỉ cụ thể) tại các xã đặc biệt khó khăn mà cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó được phân công hỗ trợ, giúp đỡ thường xuyên. 

Đối với một số địa bàn đặc biệt khó khăn đã đưa cán bộ cơ sở xuống "ba cùng” với dân để giúp dân giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

Hai là, tích cực tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thay đổi căn bản về nhận thức và hành động của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số về công tác giảm nghèo. 

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, huy động cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng chung sức thực hiện mục tiêu giảm nghèo với các phong trào thi đua sâu rộng, lan tỏa trong toàn xã hội. 

Đặc biệt là phát huy vai trò chủ thể của người dân trong việc chủ động, nỗ lực vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; đưa việc giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trở thành nhu cầu, là ước nguyện của các tầng lớp nhân dân. 

Riêng trong năm 2020, toàn tỉnh đã có 463 hộ nghèo có đơn tự nguyện xin thoát nghèo, được cấp ủy, chính quyền các cấp biểu dương, khen thưởng.

Ba là, triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ sinh kế cho các hộ nghèo, cận nghèo thông qua việc thực hiện lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới. 

Tập trung quy hoạch, bố trí ổn định dân cư, gắn với ban hành và thực hiện bộ cơ chế, chính sách, đề án riêng của tỉnh theo hướng tích hợp, đồng bộ với các chính sách của Trung ương và phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. 

Hỗ trợ tư liệu sản xuất, kết hợp với vận động bà con nông dân vùng cao đổi mới phương thức tổ chức sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị của sản phẩm; đồng thời mở rộng liên kết sản xuất (theo nhóm hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã), từng bước phát triển các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa theo chuỗi giá trị gồm các sản phẩm chủ lực, đặc sản, OCOP của tỉnh.

Đến hết 2020, Yên Bái đã có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 1,35 lần bình quân chung của vùng trung du và miền núi phía Bắc, bằng 1,85 lần bình quân chung khu vực Tây Bắc, có 3/9 đơn vị cấp huyện đã đạt chuẩn hoặc hoàn thành xây dựng nông thôn mới, thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng gấp 2 lần so với năm 2015; đây cũng chính là yếu tố tích cực góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững.

Bốn là, quan tâm đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, trường học, phát thanh, truyền hình, viễn thông, ưu tiên các địa bàn đặc biệt khó khăn, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển sản xuất, kết nối giao thương, nâng cao thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu của người dân nghèo.

Năm là, chăm lo phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, nhất là tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn; đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục dân tộc, chăm sóc sức khỏe nhân dân; chú trọng làm tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn để mở rộng sinh kế, nâng cao thu nhập cho người lao động, nhất là lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo; quan tâm hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo.

Sáu là, huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo; trong đó, bên cạnh các nguồn lực nhà nước, tỉnh đã tích cực vận động, huy động đa dạng các nguồn xã hội hóa để hỗ trợ cho công tác giảm nghèo.

Với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, kết thúc nhiệm kỳ 2015-2020, Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 7,04% (đứng thứ 12 toàn quốc, cải thiện 6 bậc so với đầu nhiệm kỳ), bình quân giảm 5,03%/năm, riêng tại 2 huyện 30a giảm bình quân 8,32%/năm; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và của cả nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số mặt khó khăn, tồn tại, đó là: (1) Mặc dù tốc độ giảm nghèo nhanh, nhưng tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo vẫn còn cao so với bình quân chung cả nước; một bộ phận hộ đã thoát nghèo ở các địa bàn thường xuyên chịu tác động của thiên tai vẫn có nguy cơ cao tái nghèo; 

(2) Nhận thức của một bộ phận người dân nghèo vẫn còn có mặt hạn chế, chưa quyết tâm, quyết liệt thoát nghèo; 

(3) Việc hỗ trợ sinh kế đối với người dân tại các địa bàn vùng cao mà nguồn thu nhập chủ yếu từ chính sách nhận khoán quản lý, bảo vệ rừng còn gặp nhiều khó khăn; 

(4) Việc đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là lưới điện quốc gia, hạ tầng giao thông đối với địa bàn vùng sâu, vùng cao còn nhiều khó khăn, đòi hỏi nguồn lực lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của địa phương, ảnh hưởng đến tiến trình giảm nghèo; 

(5) Một số chính sách liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua còn bất cập, thiếu đồng bộ, chưa bố trí đủ nguồn lực, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và hiệu quả của chính sách.

Kính thưa Đại hội,

Qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giảm nghèo, Tỉnh ủy Yên Bái đúc rút được một số bài học kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, các cấp ủy, chính quyền phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo, xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; gắn việc hoàn thành mục tiêu giảm nghèo với trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.

Thứ hai, phải đặt người nghèo, hộ nghèo vào vị trí chủ thể, trung tâm của hoạt động giảm nghèo; làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục để thay đổi tư duy, nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội, đặc biệt là giải phóng tư tưởng để người dân nghèo phát huy tính tự lực, tự trọng, có khát vọng và chủ động nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Đồng thời biểu dương, khen thưởng kịp thời các hộ nghèo tự nguyện vươn lên thoát nghèo.

Thứ ba, phải xác định rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan của tình trạng đói nghèo, thường xuyên rà soát, đánh giá, phân tích hiện trạng hộ nghèo, cận nghèo của toàn tỉnh; trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giảm nghèo bảo đảm cụ thể, sát thực với các giải pháp căn cơ, bài bản, đồng bộ và cách làm sáng tạo, linh hoạt, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn, nút thắt để hỗ trợ người dân vươn lên thoát nghèo.

Thứ tư, chương trình giảm nghèo phải được thực hiện đồng bộ với chương trình xây dựng nông thôn mới; tập trung hỗ trợ mở rộng sinh kế, phát triển sản xuất, tăng thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo. Các chính sách hỗ trợ phải thiết kế khoa học, hợp lý để hộ nghèo, hộ cận nghèo dễ dàng tiếp cận, triển khai; chú trọng nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, bền vững.

Thứ năm, cùng với việc hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo, cần quan tâm ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chăm lo phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, nhất là y tế, giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn. Huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo, trong đó, cùng với nguồn lực nhà nước, cần tranh thủ vận động đa dạng các nguồn lực ngoài Nhà nước.

Kính thưa Đại hội,

Trong các văn kiện trình Đại hội XIII đã xác định "Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”, với mục tiêu "Tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0-1,5% hằng năm”. 

Đối với tỉnh Yên Bái, Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định mục tiêu phát triển nhanh, bền vững theo hướng "xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”, trở thành tỉnh khá của vùng trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2025; trong đó tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân trên 4,0%/năm (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025), riêng 2 huyện 30a giảm trên 5,5%/năm. Thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao chỉ số hạnh phúc cho nhân dân.

Để hoàn thành tốt mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2021-2025, Đảng bộ tỉnh Yên Bái xin kiến nghị, đề xuất với Trung ương ba vấn đề: 

(1) Khu vực miền núi phía Bắc, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, là địa bàn có tỷ lệ che phủ rừng cao hơn nhiều so với bình quân chung cả nước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo cũng cao nhất cả nước, tập trung vào một bộ phận người dân mà sinh kế chủ yếu gắn với kinh tế lâm nghiệp, đồi rừng. 

Vì vậy, để vừa thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, vừa góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, đề nghị Trung ương có chính sách hỗ trợ hợp lý đối với người dân thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, bảo vệ nguồn nước, nhất là đối với rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, để người dân có thể yên tâm sinh sống, vươn lên thoát nghèo, hướng tới cuộc sống khá giả với nghề rừng.

(2) Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là các lĩnh vực: lâm nghiệp, giáo dục dân tộc, lao động việc làm, y tế, dân số… theo hướng tích hợp, đồng bộ, khả thi, giảm dần hỗ trợ trực tiếp, chuyển sang phương thức hỗ trợ gián tiếp cho hộ nghèo, cận nghèo.

(3) Khi xây dựng tiêu chí, định mức, phương án phân bổ các nguồn lực đầu tư, cần ưu tiên hợp lý cho các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đầu tư hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng, kết nối với các huyện nghèo; hạ tầng lưới điện quốc gia; các công trình phòng, chống thiên tai; đồng thời sớm hoàn thành việc sắp xếp, bố trí lại dân cư ở những nơi có nguy cơ cao bị thiên tai, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất… qua đó góp phần hỗ trợ cho thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững tại các địa bàn này.

Kính thưa Đại hội!

Với các quan điểm, mục tiêu, giải pháp về giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững đã được xác định trong các văn kiện trình Đại hội XIII, trên cơ sở phát huy những kết quả, bài học kinh nghiệm đạt được trong các nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ tỉnh Yên Bái tin tưởng rằng, nhất định đất nước ta sẽ thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo trong giai đoạn tới, tiếp tục khẳng định là hình mẫu tiêu biểu của thế giới về giảm nghèo, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội.

Thay mặt Đoàn Đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái, xin kính chúc Đoàn chủ tịch cùng các đại biểu Đại hội sức khỏe, hạnh phúc; chúc Đại hội thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tags Yên Bái tham luận Đỗ Đức Duy Bí thư Tỉnh ủy giảm nghèo bền vững miền núi dân tộc thiểu số xanh hài hòa bản sắc

Các tin khác
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà phát biểu tại Đại hội.

Trong điều kiện kinh tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới, phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức để có thể hội nhập với các nền hành chính hiện đại trong khu vực và quốc tế.

Đồng chí Đào Ngọc Dung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội trình bày tham luận.

Thời gian qua, việc thực hiện quản lý phát triển xã hội đã có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và huy động được sự tham gia tích cực, sâu rộng của mọi tầng lớp nhân dân.

Ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp sáng 28/1.

Sáng 28/1, thay mặt Đoàn Chủ tịch, ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, điều hành phiên thảo luận về các dự thảo văn kiện tại Đại hội XIII của Đảng.

Ông Mai Trực - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp thời gian qua tập trung nhiều vào những điểm "nóng"; kết luận và xử lý nghiêm sai phạm của đảng viên, trong đó có nhiều cán bộ cấp cao.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục