Sống để yêu mến và tự hào
- Cập nhật: Thứ sáu, 1/7/2016 | 9:17:28 AM
YBĐT - Người cựu chiến binh nay đã bước sang tuổi 89. Gần 30 năm trong quân ngũ, ông đã hoàn thành nghĩa vụ cao cả của người lính với Tổ quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Ông bà Đặng Ngọc Chi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm một thời trong quân ngũ.
|
“Tôi viết những dòng hồi ký này ghi lại những giờ phút trọng đại của lịch sử mà tôi và đồng đội đã trực tiếp tham gia chiến đấu. Ở đó còn vẹn nguyên tình đồng chí, tình đồng đội và niềm kiêu hãnh của lớp thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh…”. Lời nói mộc mạc nhưng đầy khí tiết của người lính Điện Biên năm xưa, làm tôi ấn tượng thực sự và tôi đã đặt bút viết về ông - người cựu chiến binh Đặng Ngọc Chi, hiện đang là Trưởng ban Liên lạc du kích Chiến khu Vần.
Ký ức một thời binh nghiệp
Trong ngôi nhà nhỏ ở tổ 26, phố Phúc Sơn, phường Nguyễn Phúc (thành phố Yên Bái), tôi thực sự cảm động khi chứng kiến cảnh đôi vợ chồng già đang chăm sóc nhau. Có khách, ông nhẹ nhàng dìu bà vào góc giường, rồi dặn: “Bà ngồi ở đây một lát nhé, không thoải mái thì bảo tôi” rồi xoay người gác đôi nạng sang bên, ông vui vẻ mời tôi vào nhà.
“Cuộc sống bây giờ có vất vả thì cũng còn hạnh phúc lắm cô ạ. Những năm chiến tranh gian khổ, được sống bên người thân, chăm sóc vợ con là điều chỉ dám mơ ước” - ông mở đầu câu chuyện một cách cởi mở không hề cảm thấy mệt mỏi khi phải chăm sóc người vợ bệnh tật.
Cứ vậy, ông để cảm xúc của mình trôi về quá khứ: “Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo ở phố Hội Bình, thị xã Yên Bái. Cha mẹ sinh được 8 người con, tôi là con út. Cha mất khi tôi chưa đầy 2 tuổi, một mình mẹ dãi dầu mưa nắng, gánh mướn, làm thuê nuôi cả gia đình. Lên mười tuổi, tôi đã phải lao động kiếm sống. Sức vóc nhỏ bé nhưng tôi không nề hà bất cứ việc gì từ gánh gạch, phụ vữa, cuốc đất, vào rừng kiếm củi. Năm 15 tuổi, tôi phụ giúp thợ chính cắt tóc, đến năm 17 tuổi đã trở thành thợ chính và có thể tự cắt tóc kiếm sống. Cứ tưởng rằng, nghề cắt tóc sẽ gắn bó suốt đời với tôi nhưng cuối cùng, tôi lại rẽ sang hướng khác”.
Ông Chi dừng lời, đưa tay buộc lại túm tóc của vợ, rồi nhìn lên những tấm huân, huy chương, giọng hào sảng: “Năm 1943, cách mạng Việt Nam đang ở thời điểm khó khăn nhất, tình hình trong nước luôn biến động vì thù trong, giặc ngoài, tôi và những thanh niên trong thị xã đã cùng tham gia tuyên truyền, giác ngộ binh lính Pháp; vận động nhân dân trong thị xã và một số làng lân cận như: Xuân Lan, Nam Cường, Bách Lẫm phá kho thóc Nhật trong đêm…"
"Một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất là những ngày tôi cùng đồng đội dự lễ tế cờ ra quân đi giải phóng và cướp chính quyền ở thị xã Nghĩa Lộ. Sau khi tham gia chiến đấu và cướp chính quyền ở thị xã Yên Bái 1 năm, tôi được ban lãnh đạo Việt Minh bố trí vào Chiến khu Vần ở tại Hang Dơi" - ông nói.
Rồi ông kể, sáng ngày 23/6/1945, chúng tôi chính thức trở thành đội viên du kích Chiến khu Vần. Ngày 2/7/1945, các đơn vị ở khắp nơi tập trung tại sân thửa ruộng cạn trước nhà ông chánh Khánh để nghe ông Ngô Minh Loan công bố chỉ thị về việc đổi tên gọi từ cứu quốc quân, du kích quân thành lực lượng giải phóng quân với nhiệm vụ là vũ trang tuyên truyền nhân dân đánh đổ chính quyền Nhật xây dựng chính quyền cách mạng. Đồng thời, công bố kế hoạch tiến công vào giải phóng và cướp chính quyền ở thị xã Nghĩa Lộ.
Hôm đó đã giết lợn, mổ trâu đặt lên ban thờ đình làng và buổi chiều ngày 2/7 lịch sử dưới cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên ngọn cây vải, các đơn vị tập trung chỉnh tề. Sau lễ chào cờ và lễ tuyên thệ, đoàn quân oai nghiêm, hùng dũng chia làm ba hướng cùng các đơn vị quân giải phóng tiến vào giải phóng Nghĩa Lộ và thành lập chính quyền ở Nghĩa Lộ.
Nói đến đây, ông dừng lại, hai tay lần giở từng trang hồi ký về chiến dịch Trần Đình - Điện Biên Phủ. Dường như muốn nén lại những dòng cảm xúc đang dâng trào trong lòng, ông Chi chậm rãi: “Suốt từ tháng 1/1954 đến ngày toàn thắng 7/5/1954, đơn vị chúng tôi đã mở nhiều đợt tấn công, truy đuổi quân địch. Tôi nhớ rõ nhất trận 14 giờ, ngày 30/3/1954, hai trận địa pháo bắn dồn dập vào cứ điểm 106. Đại đội của chúng tôi do anh Đức Lộc chỉ huy đã tập trung lực lượng mở hàng rào dây thép gai, đánh bộc phá tấn công quân địch và chiếm lô cốt của địch làm nơi chỉ huy. Bị tấn công liên tục, quân địch hoảng loạn nã pháo liên tục vào hai trận địa pháo của ta, mặt khác chúng điều thêm 3 đại đội Âu Phi đến khu vực cứ điểm 106. Đến 17 giờ cùng ngày, pháo binh ta tập trung đánh vào các cứ điểm C1, D, E và đồi A1. Các trận địa của địch bị đại bác của ta làm tê liệt hoàn toàn. Đó là một trong những động lực để quân ta thừa thắng xông lên và giành chiến thắng. Điều tôi không quên đó là niềm vui của ngày 7/5/1954, tôi được phân công nhiệm vụ bảo vệ binh lính Pháp bị thương chờ ngày trao trả ở sân bay Mường Thanh. Tôi không thể nào quên cái cảm giác hạnh phúc, tự hào cứ đan xen nhau khi trực tiếp đối diện với một đội quân hùng mạnh, tinh nhuệ với các loại vũ khí hiện đại nhất nhì thế giới”.
Tỏa sáng giữa đời thường
Nghỉ chế độ năm 1973, ông Đặng Ngọc Chi trở về địa phương và tiếp tục tham gia công tác xã hội. Ông đã làm và đảm nhận nhiều chức vụ như: Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Người cao tuổi phường; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị xã, 12 năm làm Hội thẩm Tòa án nhân dân tỉnh; 15 năm tham gia Hội Đông y thành phố… và ở bất cứ lĩnh vực công tác nào ông cũng luôn giữ gìn tác phong và phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
Đặc biệt với ông, ký ức chiến tranh và hình ảnh của đồng đội lúc nào cũng canh cánh một nỗi niềm. Ông khắc ghi những đồng đội đã hy sinh và tìm đến những đồng đội còn sống trở về để tri âm, tri kỷ. Từ năm 1996 đến nay, ông được đồng đội bầu làm Trưởng ban Liên lạc du kích Chiến khu Vần của 36 đội viên du kích chiến khu Vần năm xưa nay chỉ còn lại 8 người...
Người cựu chiến binh nay đã bước sang tuổi 89. Gần 30 năm trong quân ngũ, ông đã hoàn thành nghĩa vụ cao cả của người lính với Tổ quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu giành độc lập, tự do cho dân tộc. 30 năm tiếp theo giữa đời thường, ông vẫn là người đảng viên mẫu mực.
Ánh mắt của người lính chiến khu năm xưa chất chứa sự tin yêu. Ông tìm về quá khứ như để định hướng mình sống với cái tâm của người lính, sống trọn vẹn nghĩa tình với đồng đội. Hiện nay, tuy đã tuổi cao, sức yếu nhưng ông vẫn có những đóng góp tích cực trong xây dựng chi bộ Đảng nơi mình sinh sống. Chính tinh thần mẫu mực đó của lớp cán bộ tiền khởi nghĩa, người chiến sỹ Điện Biên năm xưa đã giúp ông Đặng Ngọc Chi luôn được mọi thế hệ trẻ, già ở địa phương nêu gương và kính trọng.
Chia tay ông khi bàn tay nắm chặt chưa muốn rời, lời ông “Là đảng viên nhiều năm làm công tác Đảng trong quân ngũ, tôi vô cùng thấm thía lời dạy của Bác Hồ về công tác xây dựng Đảng: Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người của Đảng ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa…”. Tôi tin lắm, tinh thần ấy sẽ được lan tỏa ở khu dân cư, Đảng bộ phường Nguyễn Phúc và những người trẻ như chúng tôi niềm tự hào dân tộc.
Quỳnh Nga
Các tin khác
YBĐT - Địa bàn thôn Bản Chanh, xã Phù Nham (Văn Chấn) hôm nay chính là nơi “đứng chân” của Khu ủy Tây Bắc những năm 1953 - 1954 để lãnh đạo phong trào cách mạng của bốn tỉnh Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược.
Do tính chất quan trọng của chiến dịch Biên giới 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo chiến dịch nhằm đảm bảo tính chắc thắng. >>Nét truyền thống tiêu biểu và những phần thưởng cao quý của LLVT Quân khu trong 70 năm qua
LLVT Quân khu ngày càng trưởng thành vững mạnh, đã viết nên truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”
YBĐT - Đã qua rồi những ngày khói lửa đạn bom, song Di tích lịch sử Đèo Lũng Lô vẫn sừng sững đó để viết tiếp những trang huyền thoại chống giặc ngoại xâm của lớp cha anh đi trước. Để ngày hôm nay, chúng tôi - thế hệ được sinh ra trong thời bình đến nơi này được nghe, được cảm nhận mà lòng bồi hồi xúc động, tự hào như tưởng đâu đây vẫn nghe rầm rập những bước chân trong cuộc trường chinh đưa đất nước đến hòa bình, độc lập, tự do.