Khèn Mông - Tiếng của đại ngàn
- Cập nhật: Thứ tư, 22/7/2009 | 12:00:00 AM
YênBái - YBĐT -
Người Mông có vốn nghệ thuật dân gian rất phong phú. Vào mùa xuân, dịp tết (từ 30 tháng 11 Âm lịch), hay lễ cưới của họ đều hát dân ca và múa khèn rất độc đáo và đặc sắc. Chuyện về chiếc khèn Mông bắt nguồn từ một truyền tích... >>>Xem Video ÂM THANH CỦA ĐẠI NGÀN
Khèn Mông với các vũ điệu dũng mãnh, trữ tình.
|
Dân tộc Mông ở Yên Bái có khoảng 55.000 người, chiếm 8,1% dân số toàn tỉnh Yên Bái, cư trú tập trung tại 40 xã thuộc 5 huyện là Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên.
Chuyện kể rằng: “Ngày xưa có một nhà nọ cha mẹ mất sớm, để lại sáu anh em trai ở với nhau. Họ làm được cái khèn có 6 lỗ và sáu bộ phận để sáu anh em cùng được thổi. Ngày ngày họ đi làm nương rẫy, tối về anh em quây quần bên nhau và cùng mang khèn ra thổi. Tiếng khèn trầm bổng thắm thiết, người dân trong bản tối nào cũng đến chơi để nghe thổi khèn rất đông vui. Thời ấy xảy ra chiến tranh giữa các bộ lạc. Chúng giết người cướp của. Sáu anh em thì có năm người, người thì bị giặc giết hại, người theo nghĩa quân đánh giặc, người thì bị phiêu bạt. Còn lại người em út không nhà cửa ở với chú ruột. Thiếu tiếng khèn, trong vùng trầm lặng, quạnh hưu. Vắng các anh cho nên chàng út không thể thổi được khèn. Chàng út liền nghĩ ra một ý là tổng hợp cả năm chi tiết kia thành một cây khèn. Chiếc khèn ấy ngày nay được gọi là khèn Mông...”.
Đến phiên chợ, trai gái Mông từ trên núi cao đổ xuống dập dìu. Người đi bộ, người đi ngựa, không ai bảo ai nhưng trên vai ai cũng có một cây khèn Mông. Họ xuống chợ để nhớ, để thương, để tỏ tình, để truyền gọi và bên nồi thắng cố với hương rượu ngô nồng nàn của men lá, các chàng trai cầm khèn thổi, khom lưng nhún nhẩy lượn quanh những cô gái… Nếu đôi nào ưng ý nhau thì dắt tay nhau tan biến vào núi rừng. Cây khèn Mông có thể ví như một báu vật truyền lại cho các thế hệ sau, trở thành một phần văn hóa không thể thiếu của người Mông. Tiếng khèn ngấm sâu vào từng thớ thịt người Mông, thân quen như mèn mén và rượu ngô. Con trai Mông người nào cũng đều có chiếc khèn trên vai mỗi khi lên nương hay xuống chợ. Âm thanh của khèn vút cao vừa như trách, vừa như hờn giận, vừa như mời gọi… và cũng mạnh mẽ như chính hơi thở cuộc sống người Mông vậy. Bởi, nếu không mạnh mẽ, người Mông chắc khó lòng sống nổi với sự khắc nghiệt nơi núi cao đầy đá, nắng và gió lạnh… Tiếng khèn cũng như mang trong mình một ma lực quyến rũ, vang vọng và nồng nàn giữa núi rừng đầy huyền bí nhưng rất gần với con người.
Để làm được một cây khèn ưng ý phải mất rất nhiều công đoạn. Khèn được chế tác bằng gỗ cùng sáu ống trúc lớn, nhỏ, dài, ngắn khác nhau. Sáu ống trúc tượng trưng cho sáu anh em tụ hợp trên cùng cây khèn, được xếp khéo léo, song song trên thân khèn. Khèn có lưỡi gà làm bằng kim loại. Lưỡi gà được chế tác bằng đồng dát mỏng. Lưỡi gà kêu vang được gọi là “đồng hưởng”. Lưỡi gà đầu gắn hạt sáp lớn thì âm trầm, gắn hạt sáp nhỏ thì âm bổng. Làm được chiếc lưỡi gà ưng ý phải qua nhiều công đoạn và kỳ công trong chế tác. Thông thường, người Mông hay chọn những đồng xu, hay vỏ đạn (bằng đồng) để làm lưỡi gà. Họ ngồi bên bờ suối lựa chọn những hòn đá ráp mịn, mài bằng tay dưới nước cho đến khi nào chúng phát ra âm thanh chuẩn mới thôi. Lưỡi gà chuẩn tùy thuộc vào chiều dài và độ dày của ống trúc. Thân khèn được lựa chọn từ gỗ thông đá mọc trên núi cao. Thanh gỗ được sấy khô cho tiệt hết tinh dầu và nhựa rồi được hơ qua hơ lại trên lửa, sau đó sấy ít nhất hai đến ba tháng ở trên các bếp để ăn khói. Khèn Mông có 6 ống: ống dài nhất là 100cm, ống thứ hai dài 93cm, ống thứ ba 83cm, ống thứ tư 77cm, ống thứ năm là 72cm, ống thứ sáu là 54cm.
Để tìm và làm được một ống khèn Mông vừa tròn, vừa dầy, vừa dẻo, khó vỡ, khó bẹp, các chàng trai phải đi vào tận trong rừng sâu có núi đá, thường thì họ đi ba đến năm ngày, có khi hàng tháng mới tìm được ống trúc ưng ý. Ống trúc không được già quá cũng không được non quá. Trúc được phơi sương và hong trong nắng, trong bóng râm, ít nhất là hai đến ba tháng. Khi đem ra để làm, họ phải lau bằng nước chanh quả hoặc cơm mẻ để trả lại mầu vàng óng tự nhiên của thân trúc. Phần đai quấn quanh ống được làm bằng dây gai. Dây gai được sấy trên gác bếp, ngâm vào nước cho dẻo mềm, dai không khác gì da thuộc, nhưng lại có ưu điểm mềm mỏng, dễ thắt nút. Mầu của dây gai đen nâu nổi bật trên nền trúc vàng óng, mầu gỗ vàng ngà...
Cây khèn là nhạc cụ độc đáo, có thể thổi hơi ra, có thể hít hơi vào. Khèn vừa là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế quay, nhảy. Tiếng khèn có thể một lúc phát ra đa âm, nhiều lúc vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, chim kêu, vượn hót, tiết tấu theo nhịp 4/4 hoặc 2/4 thích hợp với các động tác múa khèn. Khi các chàng trai Mông múa khèn trông như một vũ đạo rất đẹp mắt với những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất… Động tác múa khèn rất phong phú và đa dạng với những tổ hợp múa như: nhảy đưa chân, nhảy lướt, quay đổi chỗ, nhảy ngang đạp chân, bước trườn, bước lượn, ngoáy chân, đánh chân tại chỗ, quay di động, quay nhích gót, đá gót chân, chọi gà v.v… Trong đó, mô típ chủ đạo là quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoáy ốc. Khèn Mông chỉ có đàn ông Mông thổi trong dịp lễ hội Gầu Tào, làm ma, hay thổi cho người chết. Thổi khèn đi kèm với múa của các em gái Mông, chân đá chân lướt đều và những vòng lộn cùng khèn hòa với men rượu, thắng cố, mèn mén, giữa núi rừng bao la. Múa khèn với các vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng mãnh và trữ tình thể hiện sức sống mãnh liệt trên đại ngàn gió và nắng của núi rừng Tây Bắc.
Hiện nay, với sự phát triển và hội nhập giữa các nền văn hóa, các loại hình nhạc cụ dân tộc của đồng bào không chỉ đơn thuần đóng vai trò là một vật dụng riêng trong các gia đình mà còn trở thành một sản phẩm du lịch rất được ưa chuộng. Khèn Mông được bán ở chợ vùng cao, các gian giới thiệu và trưng bày sản phẩm. Một số gia đình của người Mông ở Trạm Tấu, Mù Cang Chải làm khèn bán để tăng thu nhập. Từ những yếu tố đó cũng là cơ sở để nhiều loại hình nhạc cụ độc đáo của dân tộc trở thành phương tiện giao lưu văn hóa, như sáo mũi của dân tộc Xa Phó, khèn Mông, khèn bè, pí pặp, pí ló, pí thiu (dân tộc Thái), đã làm cầu nối giữa các dân tộc trong các cuộc thi và hội diễn nghệ thuật quần chúng các cấp, đồng thời làm đẹp thêm cho một nền văn hóa cộng đồng đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Hứa Xuân Thắng