Bộ Công Thương lý giải việc giá mặt hàng thép liên tục tăng "phi mã"

  • Cập nhật: Thứ bảy, 15/5/2021 | 8:56:34 AM

Theo Bộ Công Thương, do phụ thuộc vào lượng nhập khẩu và giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, dẫn đến giá thành sản phẩm của thép các loại của Việt Nam đều thay đổi theo thị trường thế giới.

Dây chuyền sản xuất Thép tại Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên.
Dây chuyền sản xuất Thép tại Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên.

Trong thời gian qua, giá thép tăng cao gây ảnh hưởng rất lớn đến các ngành sản xuất sử dụng sản phẩm thép.

Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Ngọc Thành, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết cùng với biến động của giá nguyên liệu đầu vào thì giá thành phẩm thép trên thế giới tăng mạnh đã tác động trực tiếp đến giá thành của mặt hàng này.

- Thưa ông, giá thép trên thị trường gần đây tăng cao bất thường. Dưới chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này, xin ông cho biết nguyên nhân do đâu khiến giá thép tăng cao đột biến như vậy?

Ông Nguyễn Ngọc Thành: Trong thời gian vừa qua, nhất là thời điểm từ cuối năm 2020 và 4 tháng đầu năm và cho đến thời điểm hiện nay giá thép tăng cao. Phải nói là trong vòng 7-10 năm nay mới lại thấy có hiện tượng như thế này.

Có thể nói từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, thế giới lại chứng kiến sự biến động về giá nguyên liệu và thép thành phẩm mạnh mẽ như thời gian qua. Không riêng gì Việt Nam, giá thành phẩm thép cũng như nguyên liệu đầu vào của thép tăng toàn cầu.

Giá nguyên liệu sản xuất thép và giá thép đã tăng liên tục từ cuối năm 2020 và tăng với tốc độ phi mã trong quý 2/2021. Giá quặng nguyên liệu đã tăng trên 220 USD/tấn vào ngày 10/5/2021, phá vỡ kỷ lục cũ là 194 USD/tấn cách đây hơn 1 thập kỷ, giá thép phế đã tăng gần gấp đôi trong vòng hơn 9 tháng qua.

Ngoài ra các nguồn nguyên liệu đầu vào khác cũng tăng từ 15 đến 20%. Giá nguyên liệu đầu vào tăng như vậy là nguyên nhân chính dẫn đến tăng giá bán thép thành phẩm nói chung.

- Ông vừa cho biết là chúng ta đang phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Vậy ông có thể cho biết cụ thể chúng ta đang phải phụ thuộc vào những nguồn nguyên liệu nào cho sản xuất thép, và tỉ lệ như thế nào?

Ông Nguyễn Ngọc Thành: Đối với quặng sắt, Việt Nam đang phải nhập khẩu 80-85%, thậm chí có những thời điểm phải nhập tới 90%.

Trong cơ cấu sản xuất thép xây dựng, với khoảng 14 triệu tấn hiện nay, chúng ta đang dùng 60% công nghệ lò cao (sử dụng nguyên liệu chính là quặng sắt) còn công nghệ lò điện là 40% (sử dụng nguồn nguyên liệu là thép phế)  cũng đang phải nhập khoảng 50-60%.

Mặc dù than cốc cơ bản các doanh nghiệp lớn như Hòa Phát, Formosa đã chủ động được sản xuất cốc nhưng than mỡ vẫn phải nhập khẩu; trong khi điện cực thì ta chưa có sản xuất mà phải nhập khẩu hoàn toàn 100%.

- Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên lớn là quặng sắt, vậy vì sao chúng ta lại phải nhập khẩu nhiều như thế lượng quặng sắt cho sản xuất thép?

Ông Nguyễn Ngọc Thành: Về quặng sắt, Việt Nam có trữ lượng và tài nguyên dự báo khoảng 1,3 tỷ tấn. Hiện nay các mỏ có trữ lượng lớn là Mỏ sắt Quý Xa (Lào Cai) trữ lượng 120 triệu tấn và Mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) có trữ lượng khoảng 544 triệu tấn.

Đối với Mỏ Thạch Khê đã được cấp phép từ năm 2011, sau đó dừng lại để đánh giá, đến thời điểm này chưa khởi động lại. Đối với Mỏ Quý Xa thì hiện giờ về giấy phép khai thác cũ với công suất 3 triệu tấn/năm cũng đã hết thời hạn giấy phép, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang xem xét để cấp lại.

Như vậy, có hai mỏ lớn song hiện giờ chúng ta cũng chưa huy động được; trong đó Mỏ Thạch Khê đến thời điểm này cũng chưa quyết định việc tiếp tục hay dừng không khai thác.

Rõ ràng chúng ta thấy là nguồn nguyên liệu đầu vào (quặng sắt) trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết. Nếu chủ động được nguồn quặng sắt cũng sẽ chủ động được cơ bản nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đối với các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lò cao. Còn đối với lò điện thì lượng thép phế ra nội địa chỉ có một khối lượng nhất định nên vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.

Có nghĩa rằng, thế giới có biến động nguyên liệu đầu vào thì ở Việt Nam cũng có biến động tăng hay giảm, cũng phụ thuộc vào lượng nhập khẩu và giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, dẫn đến giá thành sản phẩm của thép các loại đều thay đổi theo thị trường thế giới.

Có một đặc điểm lớn là cơ bản chúng ta đã sản xuất được lượng thép cho xây dựng trong nước, chẳng hạn như với thời điểm này, theo thống kê toàn bộ công suất nhà máy của Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu khoảng 14 triệu tấn/năm.

Như dự báo của Hiệp hội Thép và các nhà sản xuất, Bộ Công Thương cũng ghi nhận trong năm 2021 lượng tiêu thụ dự báo khoảng 10,5 triệu tấn đối với thép xây dựng.

Còn lại đối với mặt hàng khác là thép cán nóng, thép hợp kim để phục vụ cho các ngành cơ khí chế tạo, hiện giờ chỉ có hai doanh nghiệp sản xuất được là Hòa Phát và Fomosa với tổng sản lượng năm 2020 vào khoảng 4 triệu tấn/năm.

Trong khi đó nhu cầu tại thị trường nội địa rơi vào khoảng 14-15 triệu tấn/năm, song cả nước đang phải nhập đến 70% khối lượng này (tức là khoảng 10 triệu tấn đối với thép cán nóng) và Việt Nam cũng đang hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu.

Rõ ràng có hai mặt hàng, một là nguyên liệu nhập khẩu về sản xuất thép xây dựng và tiếp đến là nhập thép thành phẩm để gia công chế tạo, cả hai đều tăng rất cao, dẫn đến thị trường có những biến động nhất định. Có những thời điểm biến động so với cùng kỳ lên 40-45%...

- Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam cũng đã có những kiến nghị, đề nghị kiểm tra triệt để những nguyên nhân làm cho giá thép tăng đột biến. Vậy Bộ Công Thương đã có động thái cụ thể như thế nào để kiểm soát được tình hình này?

Ông Nguyễn Ngọc Thành: Việc giá thép tăng đột biến trong thời gian qua không chỉ ở Việt Nam mà là tăng giá trên toàn thế giới. Do các nhà máy sản xuất thép trong nước phụ thuộc phần lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên việc tăng giá bán các sản phẩm thép là không thể tránh khỏi.

Để từng bước điều chỉnh nguồn cung thép, bình ổn giá thép định giá thép, tránh hiện tượng đầu cơ ép giá để trục lợi đối với các sản phẩm thép, đầu tháng 2/2021, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và đã có Văn bản số 724/BCT-CN ngày 05/2/2021 báo cáo Chính phủ và kiến nghị chỉ đạo cơ quan liên quan một số giải pháp nhằm ổn định cung- cầu và giá thép trong nước trong năm 2021.

Bộ Công Thương đã chỉ đạo các đơn vị, cơ quan thuộc bộ nghiên cứu rà soát và thực hiện việc xây dựng các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng; Chủ động tiến hành triển khai các giải pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm thép phù hợp với các quy định thương mại và luật pháp quốc tế.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương tiếp tục theo dõi và xem xử lý kịp thời việc chống bán phá giá một số sản phẩm thép nhập khẩu vào thị trường Việt Nam cũng như đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của các nước đối với mặt hàng thép xuất khẩu của Việt Nam nhằm giảm thiểu các thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất thép.

Bộ sẽ tăng cường công tác quản lý thị trường để ngăn chặn, xử lý kịp thời những hiện tượng đầu cơ tăng giá thép, thao túng giá thép trên thị trường, gian lận thương mại làm thất thu ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến người tiêu dùng; Kiến nghị ban hành các chính sách kiểm soát xuất khẩu đối với các loại thép trong nước đang có nhu cầu. Đồng thời, tháo gỡ khó khăn cho các dự án đầu tư sản xuất thép sớm đưa vào hoạt động.

Ngày 11/5/2021, Bộ Công Thương đã có Văn bản số 2612/BCT-CN gửi Hiệp hội thép Việt Nam và các doanh nghiệp, các nhà sản xuất thép lớn trong nước; trong đó có một số nội dung liên quan đến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái về bình ổn thị trường thép.

Theo đó đề nghị các đơn vị rà soát, xem xét các vấn đề liên quan đến nguyên liệu đầu vào, tiết giảm các chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm, có biện pháp tăng công suất sản xuất thép để đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, hạn chế xuất khẩu các mặt hàng, sản phẩm thép trong nước đang có nhu cầu.

Thực hiện việc rà soát các đại lý phân phối trong việc cung cấp hàng đến các hộ tiêu thụ, người tiêu dùng, tránh các hiện tượng găm hàng, đẩy giá và cạnh tranh không lành mạnh.

Hiện nay, Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tiến hành nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy, tăng năng lực sản xuất thép thành phẩm trong nước, đáp ứng được cơ bản nhu cầu trong nước theo đúng chỉ đạo của Chính phủ tại Văn bản số 3025/VPCP-KTTH ngày 8/5 của Văn phòng Chính phủ.

Ngoài ra, Bộ cũng luôn theo sát các doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp có vướng mắc về chủ trương chính sách, Bộ sẽ sẵn sàng trực tiếp tháo gỡ một cách sớm nhất.

- Trân trọng cảm ơn ông.

Bộ Tài chính: Giảm thuế nhập khẩu ưu đãi với thép cần cân nhắc

Theo Bộ Tài chính, việc giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với thép thành phẩm cần được cân nhắc, tính toán cẩn trọng để vừa góp phần thúc đẩy ngành thép phát triển vừa bình ổn thị trường trong nước.

Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) Trương Bá Tuấn cho biết, Việt Nam có thể xem xét việc điều chỉnh chính sách thuế tự vệ đối với phôi thép và các sản phẩm thép xây dựng trong giai đoạn hiện nay để giảm giá thành nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất thép và giá thép xây dựng bán ra trên thị trường trong nước.

Tuy nhiên, đại diện Vụ Chính sách cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc đặt vấn đề giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng thép thành phẩm cần được cân nhắc, tính toán cẩn trọng để vừa góp phần thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển bền vững. Đồng thời, bình ổn thị trường thép trong nước, bảo đảm tuân thủ đúng các nguyên tắc được quy định trong Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016.

"Điều quan trọng nhất là cần phải có các giải pháp để cân đối cung cầu, nâng cao năng lực sản xuất thép trong nước” - ông Trương Bá Tuấn nói.

Trước đó, Bộ Công Thương đã đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số bộ có cơ chế hỗ trợ; trong đó, có đề nghị Bộ Tài chính có chính sách điều tiết thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng thép có biến động lớn về giá.

Ông Trương Bá Tuấn cho biết, để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước trong việc hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với thép nhập khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với nguyên liệu để sản xuất thép được quy định ở mức thấp là 0% (nhóm 72.03), 3% (nhóm 72.04) và 1% đối với phôi thép (nhóm 72.06).

Việc quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thép thấp trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy ngành thép trong nước giảm giá thành đầu vào và mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Với thuế nhập khẩu thép thành phẩm, hiện mặt hàng thép xây dựng thuộc nhóm 72.13 đến 72.16 có mức thuế suất thuế MFN là 15% đối với thép hình, thép góc và 20% đối với thép dạng thanh que. Những mặt hàng này nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc và từ Ấn Độ.

Bên cạnh đó, Việt Nam hiện đang là thành viên của 14 hiệp định thương mại tự do (FTA), mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số hiệp định này đối với các mặt hàng thép xây dựng tương đối thấp như Hiệp định ASEAN (ATIGA), Việt Nam-Nhật Bản (VJFTA), Việt Nam Hàn Quốc (VKFTA).

Có thể thấy, mức thuế suất thuế nhập khẩu mặt hàng thép đã được quy định trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc theo quy định của luật, đồng thời phù hợp với thực trạng phát triển của ngành thép trong nước cũng như cam kết về cắt giảm thuế quan khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và khi tham gia các FTA.

Ông Trương Bá Tuấn cho biết thêm, vừa qua Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 918/QĐ-BCT ngày 20/3/2020 về việc tiếp tục áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam thêm 3 năm.

Theo đó, các chủng loại phôi thép nhập khẩu được áp dụng mức thuế suất thuế tự vệ ở mức 15,3% từ ngày 22/3/2020 đến ngày 21/3/2021; 13,3% từ ngày 22/3/2021 đến ngày 21/3/2022 và 11,3% từ ngày 22/3/2022 đến ngày 21/3/2023.

Còn đối với các sản phẩm thép dài nhập khẩu vào Việt Nam, mức thuế tự vệ được áp dụng tương ứng cho từng giai đoạn là 9,4%; 7,9% và 6,4%, nhằm ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước.

Thời gian qua giá thép biến động mạnh, tháng 1/2021, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thép thông báo điều chỉnh tăng giá bán khoảng từ 300-900 đồng/kg tùy theo chủng loại và nhà sản xuất.

Trong tháng 4/2021, mức tăng khoảng 1.600-1.700 đồng/kg tùy từng chủng loại. Hiện nay, giá bán tại các nhà máy sản xuất thép ở mức khoảng từ 16.200-17.800 đồng/kg tùy chủng loại và nhà sản xuất. Đây là giá giao tại nhà máy, chưa bao gồm 10% thuế VAT, chiết khấu bán hàng.

Ông Đặng Công Khôi, Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho rằng, giá thép xây dựng tăng trong giai đoạn vừa qua có sự tác động của biến động tăng giá phôi thép trên thị trường thế giới.

Do nhu cầu từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh khiến cho giá nguyên liệu thô sản xuất thép như thép phế, phôi thép từ khoảng giữa tháng 10/2020 đến nay liên tục tăng.

Theo khảo sát, nắm bắt thông tin thì giá chào phôi, thép phế trên thị trường thế giới ở thời điểm hiện tại tăng khoảng 37-39% so với tháng 10/2020. Giá chào bán phôi thép thị trường thế giới tháng 4/2021 tăng khoảng 50-55 USD/tấn so với cuối tháng 3/2021…

Riêng trong tháng 4/2021, giá phôi nội địa tăng khoảng 1.450 đồng/kg, giá thép phế tăng khoảng 1.200 đồng/kg.

Ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cũng cho rằng, nguyên nhân đầu tiên của giá thép tăng là Trung Quốc đang chiếm tới 60% sản lượng thép thô toàn cầu.

Các yếu tố đang chi phối thị trường này gây ảnh hưởng giá thép toàn cầu bao gồm nguồn cung thép thắt chặt theo chính sách của Chính phủ Trung Quốc về kiểm soát ô nhiễm; nhu cầu tiêu thụ thép của nước này tăng cao do phục hồi kinh tế; chi phí sản xuất thép của Trung Quốc cũng cao hơn so với các quốc gia làm nhập khẩu bán thành phẩm, đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử vào cuối năm 2020.

Bên cạnh đó, nền kinh tế toàn cầu đang phục hồi, điều này đồng nghĩa nhu cầu về thép của thế giới tăng, trong khi dự báo của các tổ chức quốc tế đều khẳng định công suất thép toàn cầu năm nay chưa thể hồi phục như trước đại dịch.

Điều đó có nghĩa là giá thép sẽ có khả năng còn tăng. Ngoài ra, hiện giá thép còn chịu sự tác động của cước phí vận chuyển tăng cao, thiếu container tàu biển.

Để góp phần giải quyết vấn đề trong dài hạn, đại diện Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho rằng, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy trình để đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Giá cho phù hợp với quan điểm, nguyên tắc và tính thống nhất, đồng bộ trong xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế thị trường, phát triển kinh tế xanh và bền vững.

Qua đó, hướng đến mục tiêu khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế phát sinh trong thời gian qua, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.

Về giải pháp dài hạn ổn định cung-cầu, đối với thép xây dựng, Bộ Công Thương cho biết, sẽ chỉ đạo các đơn vị liên quan tăng cường biện pháp phòng vệ thương mại để giúp cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước phát triển và đáp ứng đủ nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu.

Tuy nhiên, cơ quan này cho rằng do giá thành sản phẩm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu (quặng, thép phế liệu, điện cực..) nên sẽ chịu ảnh hưởng của giá thế giới.

(Theo Vietnam+)

Các tin khác
Người dân Lục Ngạn xếp hàng chờ cân vải thiều

Lãnh đạo tỉnh Bắc Giang cho biết Thủ tướng đồng ý đề xuất của tỉnh về việc cho phép 190 thương nhân Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam để thu mua vải thiều Lục Ngạn. Tỉnh đã lên 3 kịch bản tiêu thụ vải.

Lãnh đạo Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị tăng cường công tác quản lý và thông tin giá cả thị trường tại địa phương.

Các đại biểu tham dự Hội nghị tại điểm cầu Yên Bái

Sáng 14/5, các Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh và Trần Thanh Nam chủ trì Hội nghị trực tuyến thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch bệnh Covid -19.Tham dự tại điểm cầu Yên Bái cóa lãnh đạo Sở NN&PTNT cũng các ban, ngành liên quan.

Lực lượng chức năng tiến hành phun khử khuẩn hạn chế sự lây lan của dịch COVID-19.

Bộ Tài chính yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm về chất lượng, giá cả, tổ chức quản lý, phân phối, sử dụng bảo đảm công khai, minh bạch, không để xảy ra lãng phí, tiêu cực, thất thoát ngân sách, tài sản của nhà nước khi mua sắm thiết bị vật tư, hoá chất… phòng chống COVID-19.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục