3 kịch bản điện hóa trong giao thông
Đó là khẳng định của TS Nguyễn Quốc Khánh - chuyên gia năng lượng, đại diện nhóm nghiên cứu "Phát triển xe điện: Dự báo xu thế và hàm ý cho Việt Nam" tại toạ đàm "Tương lai phát triển xe điện tại Việt Nam" do Báo Giao Thông phối hợp cùng Trung tâm Phát triển Sáng tạo xanh (Green ID) và Lab 100RE tổ chức sáng nay (21.12).
Theo ông Khánh, giai đoạn 2014-2020, mỗi năm trung bình có 5,14 triệu xe máy, 255.000 ôtô con được đăng ký mới. Trong đó, tiêu thụ năng lượng giao thông chiếm 21,4% tổng tiêu thụ quốc gia năm 2014, tăng 4,9% giai đoạn 2014-2019, nhanh hơn tốc tăng toàn ngành ở mức 3,4%. Tổng phát thải 33,2 triệu tấn, chiếm 19,3% phát thải từ lĩnh vực năng lượng.
Theo dự thảo Quy hoạch Điện VIII (bản tháng 10.2021), công suất lắp đặt các nguồn điện tăng gấp đôi vào năm 2030 và tăng gấp đôi lần nữa vào năm 2045. Trong đó, năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện lớn) tăng từ 30,2% năm 2020 lên 42,% năm 2045 và hệ số phát thải điện lưới giảm dần.
TS Nguyễn Quốc Khánh phát biểu tại hội thảo về xe điện.
Đối với kịch bản điện hóa trong giao thông, ông Khánh nêu ra 3 kịch bản chính: Kịch bản cơ sở, kịch bản phát triển vừa và kịch bản cao.
Với kịch bản cơ sở, ông Khánh cho rằng, sự thâm nhập xe điện sẽ ở mức thấp, chủ yếu là xe máy điện, tỉ lệ xe máy điện chiếm 18% xe máy bán mới năm 2030 và 40% năm 2050.
Còn kịch bản phát triển vừa, tỉ lệ xe máy điện chiếm 34% xe bán mới năm 2030 và 65% năm 2050. Xe ôtô con điện chiếm 30% xe bán mới năm 2030.
Còn kịch bản cao thì tỉ lệ xe điện chiếm 72% xe bán mới vào năm 2030, 100% vào năm 2050; ôtô con chiếm 30% vào năm 2030, 70% vào năm 2050; xe buýt chiếm 10% vào năm 2030, 30% vào năm 2050; xe bán tải, xe tải hạng nhẹ và hạng trung chiếm 5% vào năm 2030 và 30% vào năm 2050.
Với các kịch bản điện hoá giao thông như vậy, TS Nguyễn Quốc Khánh cho biết, nhu cầu tiêu thụ điện trong thời gian tới là rất lớn. Trong đó, với kịch bản 2, nhu cầu tiêu thụ điện vào năm 2030 trong lĩnh vực giao thông cần khoảng 3,99 tỉ kWh, tương đương điện lượng của 1/2 nhà máy Thủy điện Hòa Bình; năm 2050 là 17,57 tỉ kWh, tương đương 2 nhà máy Thủy điện Hòa Bình.
Còn với kịch bản 3, nhu cầu điện cho lĩnh vực giao thông khoảng 8,48 tỉ kWh vào năm 2030, tương đương nhà máy Thủy điện Hòa Bình; con số này tăng lên 71,87 tỉ kWh vào năm 2050, tương đương 10 nhà máy Thủy điện Hòa Bình.
An toàn về điện và pin là điều kiện bắt buộc
Nhận định về hạ tầng phát triển xe điện ở Việt Nam, TS Nguyễn Đức Tuyên (Đại học Bách khoa) cho rằng, ngoài 200 trạm sạc của Vinfast, thì hiện ở Việt Nam hầu như chưa có hạ tầng cho phát triển xe điện; các tiêu chuẩn của Việt Nam về phát triển loại hình phương tiện này cũng chưa có và chưa thống nhất.
Để có cơ sở thúc đẩy sự phát triển xe điện ở Việt Nam, ông Tuyên cho biết, cần hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật, như yêu cầu kỹ thuật và an toàn điện với hệ thống sạc nhanh, thay thế pin và ắc quy...
Đồng thời, tối ưu hoá các trạm sặc và vị trí sặc pin bằng việc sử dụng các nguồn điện sạch, năng lượng tái tạo, quản lý cân bằng công suất lưới.
"Bên cạnh đó cần có những chính sách hỗ trợ trực tiếp vào giá mua xe, thuế, chi phí sạc, lắp đặt trạm sạc tại nhà; đánh thuế vào phát thải cao. Thậm chí, cần có khu vực vận hành riêng cho xe điện, giống như cho xe BRT hiện nay", ông Tuyên nói.
Đồng quan điểm, ông Trần Quang Hà - Phó vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ (Bộ Giao thông Vận tải) cho biết, đối với xe điện 4 bánh, việc an toàn về điện và pin là điều kiện bắt buộc, cần đưa vào quản lý với hàng hoá nhóm 2 theo quy chuẩn.
"Kế hoạch là 2022 sẽ xây dựng quy chuẩn về pin. Để đầu tư và thử nghiệm theo quy chuẩn quốc tế là vấn đề rất nan giải, bởi nó liên quan những yếu tố kỹ thuật như rung động, môi trường... Nhưng cái này phải làm, trước mắt sẽ học hỏi kinh nghiệm quốc tế, chấp nhận kết quả thử nghiệm của nước ngoài.
Chúng tôi nỗ lực hoàn thiện sớm kiểm soát chất lượng khi xe điện phát triển. Đồng thời có những chính sách về thuế phí cho phù hợp, để có lộ trình chuyển sang xe thuần điện", ông Hà nói.
(Theo LĐO)