Những tháng đầu năm 2022, tỉnh triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch (PCD) Covid-19 gắn với tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp (DN); giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư và DN đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD). Với sự khởi sắc của các thị trường xuất khẩu quan trọng như: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…, nhiều ngành SXCN chủ lực của tỉnh như: chế biến gỗ, quặng sắt, chè, giấy làm vàng mã… có số lượng đơn hàng xuất khẩu mới tăng. Đây là một tín hiệu tốt.
Ông Nguyễn Đăng Khoa - Giám đốc Doanh nghiệp Tư nhân Đăng Khoa có nhà máy tại huyện Trấn Yên chia sẻ: thời gian qua, DN đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để xây dựng nhà máy với hệ thống dây chuyền hiện đại được nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan để sản xuất gỗ thanh xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á. Giữa hàng trăm sản phẩm gỗ chế biến của các DN trong, ngoài tỉnh, chúng tôi đã tìm lối đi riêng khi tập trung sản xuất gỗ ghép, ván sàn nhà. Cùng đó, chú trọng đầu tư công nghệ, đào tạo công nhân có tay nghề. Nhờ vậy, sản phẩm luôn đạt chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong, ngoài nước. DN đã có đơn hàng đến hết tháng 6; dự kiến tổng doanh thu năm 2022 đạt trên 80 tỷ đồng; trong đó, doanh thu xuất khẩu khoảng 50 tỷ đồng, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho 80 người lao động địa phương.
Ông Vũ Vinh Quang - Giám đốc Sở Công Thương cho biết: mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh nhưng chỉ số SXCN 4 tháng đầu năm 2022, tăng 9,17% so với cùng kỳ. Cụ thể, sản xuất trang phục tăng 43,39%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 32,96%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 23,33%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 62,78%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 64,15%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí tăng 31,51%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải; tái chế phế liệu tăng 4,84%...
Ngoài các ngành có mức tăng trên thì một số ngành giảm so với cùng kỳ như: khai thác quặng kim loại giảm 30,37%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 12,91%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 46,17%; sản xuất kim loại giảm 38,85%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 12,62%; sửa chữa, bảo dưỡng, lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 9,23%...
Một số sản phẩm chính có chỉ số sản xuất tăng cao như: đá xây dựng khác tăng 31,5%; tinh bột sắn tăng 44,43%; quần áo các loại tăng 55,18%; gỗ dán tăng 24,11%; gỗ lạng tăng 39,82%; sơn và véc - ni tăng 23,33%; dược phẩm khác chưa được phân vào đâu tăng 62,78%; các loại đá lát, đá lát lề đường tăng 19,6%; các sản phẩm bằng đá hoặc bằng các chất liệu khoáng khác chưa được phân vào đâu tăng 18,61%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại tăng 36,87%; điện sản xuất tăng 38,37%; điện thương phẩm tăng 3,92%...
Có thể thấy, trong bối cảnh khó khăn chung do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhưng với sự nỗ lực của các cấp, ngành, địa phương, DN và sự ủng hộ của nhân dân, ngành công nghiệp của tỉnh đã có bước phát triển quan trọng, chỉ số SXCN duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo, giảm dần tỷ trọng khai khoáng.
Phát huy tốt những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, SXCN dần trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh có quy mô sản xuất lớn, chất lượng ổn định, tạo được thương hiệu trên thị trường trong, ngoài nước...
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế là SXCN chưa có sự bứt phá mạnh mẽ, cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm và chưa rõ nét; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển; chưa có nhiều sản phẩm chế biến sâu phục vụ xuất khẩu.
Các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phần lớn có quy mô nhỏ và vừa; dây chuyền công nghệ sản xuất chậm được đổi mới, chất lượng sản phẩm còn thấp, mẫu mã đơn giản; hạ tầng giao thông còn bất cập, thiếu đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu thợ tay nghề cao; cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực đầu tư vào phát triển công nghiệp chưa phát huy được hiệu quả; việc huy động, bố trí các nguồn lực phát triển hạ tầng khu, cụm công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến thiếu mặt bằng sạch để thu hút đầu tư; chưa tạo ra nhiều chuỗi liên kết sản xuất, gia tăng giá trị các sản phẩm công nghiệp của tỉnh...
Để SXCN của tỉnh đạt mức tăng ổn định ở các tháng tiếp theo, các ngành, các cấp có liên quan cần có biện pháp thiết thực, tháo gỡ khó khăn cho các DN về nguồn vốn, hỗ trợ trong xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm. Triển khai thực hiện tốt PCD Covid-19 với phương châm "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19.
Thực hiện tốt Kế hoạch số 234/KH-UBND ngày 19/10/2021 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ để phục hồi SXKD. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, có lợi thế cạnh tranh như: chế biến nông lâm sản gắn với vùng nguyên liệu, trọng tâm là chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao; khai thác và chế biến sâu khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp; cơ khí, điện tử, công nghiệp phụ trợ; đồng thời, phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động địa phương như dệt may, da giày; ưu tiên lựa chọn các dự án công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, thân thiện với môi trường, công nghiệp sạch, công nghệ sinh học.
Cần có những giải pháp cụ thể khuyến khích và hỗ trợ các DN đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án SXCN, các dự án thủy điện, các dự án hạ tầng khu, Cụm công nghiệp Bảo Hưng và Cụm công nghiệp Minh Quân. Mục tiêu của tỉnh trong giai đoạn 2021 - 2025 là cơ cấu lại SXCN theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác; xây dựng nền công nghiệp phát triển bền vững, chú trọng phát triển hiệu quả chế biến sâu khoáng sản, công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ…
Quang Thiều