Với Đào Thu Hương - một dược sĩ thôn Pom Ban, xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn, người đọc luôn cảm nhận được nét thơ tươi sáng, hồn nhiên, trong văn vắt như lạch suối nguồn miền Tây.
"Mùa đông ơi! Cho ta xin gửi lại
Chút lạnh lùng vương trong gió heo may
Mùa xuân đến, hoa nắng ấm bàn tay
Để yêu thương len vào từng ngõ nhỏ”
Đây là khổ thơ đầu tiên trong bài "Yêu thương mùa xuân” đăng trên Báo Yên Bái khi Hương 19 tuổi. Tứ thơ giản đơn, tựa như những câu chữ có vần đang ghép lại. Tuy nhiên, ấm, sáng, thư thái, dễ chịu là cảm xúc mà tác giả trẻ đem đến cho người thưởng thức.
Hình ảnh "hoa nắng ấm bàn tay” là sự chuyển hóa từ thị giác sang xúc giác để cho thấy sự tác động tích cực của mùa xuân, đem yêu thương về ngõ nhỏ, trong đó có những cô bé, cậu bé ngây thơ vui trong veo với chùm "bóng bay xanh đỏ”, với "quà về biếu mẹ” ngày đầu năm.
"Cây nảy lộc như sức xuân tuổi trẻ
Đất ươm mầm cho những khát vọng xanh
Cùng ước mong cho hoa trái ngọt lành
Chúc bình yên cho tình người nồng ấm”
Thật dạt dào của khát khao dâng hiến; động từ "cho” được sử dụng đến ba lần trong bốn dòng thơ, hô ứng với "nảy lộc”, "ươm mầm”, "ước mong” về những điều tốt đẹp "hoa trái ngọt lành”, "bình yên”, "nồng ấm”. Đó là lời chúc tết, lời chúc xuân, lời chúc thanh tân đầy tình cảm từ trái tim hồn hậu của cây bút trẻ.
Cũng tên Thu Hương nhưng đến với tác giả trẻ họ Vũ thuộc miền đất ngọc Lục Yên; chúng ta lại được gặp một trái tim xuân dạt dào mãnh liệt, muốn bung vượt ra mọi vòng kiềm tỏa để được đam mê tìm đến với tiếng thúc gọi của tình yêu "như con thú hoang dẫn lối” là lời tự bạch chân thật đến vô cùng. Vì thế:
"Đêm sang canh…
Tiếng khèn như chùng lại
Hoa mận trắng phập phồng ngực áo người con gái
Hương thơm… man mác … núi rừng”
Là một tứ thơ đẹp, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Vũ Thu Hương: luôn nồng nàn, đắm say, luôn thành thực trong những trần tình, tự bạch về những rung cảm, khát khao trong tình yêu. Hình ảnh hoa mận trắng là một ẩn dụ tinh tế để miêu tả trạng thái "phập phồng” nơi ngực người con gái trong đêm tình mùa xuân.
Cảm xúc ấy, sự hòa hợp lứa đôi và sự dạt dào nơi trái tim thanh xuân ấy đã lan tỏa ra không gian để cùng hô ứng thành niềm hạnh phúc ngọt ngào của vạn vật "Hương thơm… man mác… núi rừng”. Ấy là nét mạnh bạo mà không phải tác giả nữ nào cũng dám tỏ bày, chia sẻ nhưng đó cũng chính là nét cuốn hút, là cực nam châm gây nghiện với độc giả.
Bởi họ thấy, Vũ Thu Hương bản lĩnh, đắm say, nói hộ bao cảm xúc nơi trái tim mỗi người. Đọc "Tiếng gọi mùa xuân”, chúng ta lại càng thấm cảm rõ ràng điều đó. Cả bài thơ là cả bản hòa tấu mùa xuân.
"Ánh mắt em rực cháy
Môi ủ lá men rừng
Khèn ai thổi sau lưng
Em vút cao tiếng hát
Tình em như vân lát
Như hoa đẹp trong thung
Đường xa chớ ngại ngùng
Vía anh xin gửi lại”
Điểm nhìn đang đặt vào chính cô gái thôn nữ miền sơn cước ở độ đương xuân, tròn đầy, căng tràn nhựa sống nên các hình ảnh thơ thật tươi sáng, gợi cảm, phơi phới tình. Ánh mắt, làn môi đều lên men, pha lửa, thiêu đốt gây chếnh choáng say với người đối diện.
Cũng nằm trong trục chủ đề xuân yêu thương, đến với Vũ Mai Oanh - một người con gái yêu như chưa bao giờ được yêu và lúc nào cũng sống đam mê như chưa bao giờ được dâng hiến để lúc nào ngọn lửa da diết cống hiến cũng cháy bừng từng phút từng giây cho cuộc sống của hiện sinh.
Và trong thơ, Mai Oanh cũng luôn cồn cào như thế. Tuy nhiên, trong góc thi cảm hôm nay, tôi lại được đằm mình với những vần thơ tình mùa xuân nhưng không phải rát bỏng khao khát của lứa đôi mà được cảm nhận một nét đẹp khác trong thơ của tác giả trẻ - đó là sự chiêm nghiệm, ẩn chứa chiều sâu ngẫm trải về tình cảm gia đình. Trong "Vườn nhà” tác giả viết:
"Đất Yên Bái của mình nhiều mưa cả mùa đông
Trong rét buốt sương giăng nhiều tơ nhện
Con nhớ chỉ có củ su hào trong vườn nhà mình là không ngừng lớn
Và cây bắp cải mẹ trồng vẫn cuộn cả gió đông”
Thuần túy chỉ như lời tự sự thôi mà sao thấm thía tấm lòng chắt chiu, tần tảo, hy sinh của người mẹ đến vậy. Đó chính là bởi cách xây dựng hình ảnh đối lập: giữa mưa, rét buốt, sương giăng của khắc nghiệt với những thành quả của đôi bàn tay mẹ: củ su hào lớn, cây bắp cải cuộn tròn bất chấp cả gió táp mùa đông, là "mấy con gà con” cũng "lớn rất nhanh” cho đến "Rặng mía sau vườn đốt vẫn vươn lên/ Đón cả sương giăng giữa đời buốt giá”.
Nhưng sâu sắc hơn, khi tứ thơ không chỉ gợi ra củ su hào, cây bắp cải, đàn gà con, rặng mía vẫn lớn mỗi ngày mà quan trọng hơn là giá trị mà mẹ vun giữ qua bao ngày tê tái để nâng niu, chiu chắt những tình cảm ấm áp trong nếp gia phong.
"Bàn tay mẹ vun từng hạt ngọt
Để mía đo ngày đo tháng đón xuân sang”
Thước đo ấy chính là thước đo hạnh phúc mà mẹ luôn âm thầm nhẫn chịu, hy sinh để vun xới mùa xuân cho gia đình. Cho nên hình ảnh ở dòng thơ trên cùng với khổ kết chính là tình cảm trân trọng, biết ơn, đồng nhất mẹ và mùa xuân của tác giả - một sự thổ lộ tinh tế bằng hình ảnh thơ mà không cần tỏ bày một câu trực ngôn nào:
"Tuổi đã xếp ngày xếp tháng trên tay
Mẹ vẫn không ngừng chắt chiu cả những mùa tê tái
Ở ngoài đường gió mùa đông vẫn không ngừng thổi
Chỉ khu vườn nhà mình mãi mãi xuân sang”
Dấu hiệu tuổi tác – những vết nhăn xô sóng trên tay, nhưng tấm lòng và tình yêu bao la của người mẹ vẫn luôn luôn quảng đại. Một lần nữa phép đối lại được sử dụng thật đắc địa: ngoài đường, gió mùa đông thổi nhưng nơi nhà mình, xuân không chỉ có một mùa mà tứ mùa đều là mùa xuân thông qua tính từ khẳng định "mãi mãi”.
Cũng sâu sắc và hàm ngôn như thế, với "Những bước chân Nậm Khắt”, Vũ Mai Oanh đã gieo vào lòng người một niềm tin sắt son về ý chí, nghị lực phi thường của người dân quê hương trong hành trình tạo lập mùa xuân cuộc sống.
"Cây đào mọc trên đá
Cành đào mọc nghiêng
Hoa đào cũng nở nghiêng”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã chạm khơi những xù xì gai góc của môi trường sinh tồn: trên đá, mọc nghiêng. Nhưng điều kì diệu và thôi thúc tuyệt vời chính là bản năng và khát vọng sống vô cùng mạnh mẽ: cành đào mọc, hoa đào nở - mạnh mẽ vươn lên. Đó là chất sống kiên cường như đã thấm vào từng thớ cây ngọn cỏ bao đời của người dân Nậm Khắt. Hàng loạt hình ảnh thơ kế tiếp được Mai Oanh không phải miêu tả mà như đang muốn thống kê bằng lối kể tự nhiên với cảm xúc yêu dấu, khâm phục, mến yêu vô vàn:
"Mầm đào xanh lách vỏ đào xù xì
Hạt ngô nẩy xanh từ nách đá tai mèo xám bạc
…
Cây thông mọc trên đá
Lá thông nhọn như ngọn dao tay bố tỉa cành”
Khắc khổ, gian khó nhưng họ không chùn bước, không đầu hàng. Thiên nhiên bao quanh như lò luyện "Thép đã tôi thế đấy” nhưng mầm xanh vẫn trổ, hoa đào vẫn đơm bông, hạt ngô vẫn nẩy mầm. Đó là biểu hiện của sức sống dồi dào, mãnh liệt.
Vậy nên, trong mùa sương nhưng "váy chị rung rinh trong nắng sáng”, nhựa của thông vẫn thơm cả đất trồng, để những cơn mưa rừng, vạt nắng tỏa làm cho "hoa táo trắng”, "quả táo hồng” và "má của chị cũng hồng như táo chín”. Đó là sự đáng yêu, trong ngần nét đẹp khỏe khoắn, rạng ngời sắc màu thôn bản. Đặc biệt là ở khổ thơ thứ tư:
"Bố bảo nhà họ Thào Nậm Khắt
Con gái đẹp như hoa đào, chăm như hoa táo mùa ong làm mật
Con trai mạnh như cây thông, vững như rừng táo không cho trôi đất
Cái chân không được nghỉ
Cái tay không được vụng
Cái mắt biết nhìn người làm lụng
Thì mới nên bản Hua Khắt mùa xuân”
Một loạt hình ảnh so sánh dung dị, gần gũi và rất đặc trưng nơi xứ sở Mù Cang. Con gái đẹp như hoa đào rừng, chăm chỉ như mùa ong làm mật. Con trai khỏe mạnh như cây thông, sức vóc như cây táo. Cuộc sống của họ gắn liền với lao động nên sự chăm chỉ là tố chất hàng đầu để xây dựng sự bền vững cho bản thân, cho gia đình.
Vượt qua những khó khăn, họ khắc phục xóa đói giảm nghèo bằng đôi bàn tay lao động, bằng đôi chân chinh phục những quả đồi, vách núi cheo leo. Hua Khắt cũng là bản đi đầu triển khai mô hình nghỉ dưỡng sinh thái – đó là sự nỗ lực trong hành trình đi tìm và tạo dựng mùa xuân nơi rẻo cao.
Vũ Mai Oanh là cô gái thành phố nhưng phải thấu hiểu, am tường và gần gũi bà con lắm mới có những vần thơ mộc mạc, chân chất nhưng trúng, đúng và biểu cảm như thế về nỗ lực vượt bậc trên chặng đường gieo trồng cấy hái xuân cho cuộc sống. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn nhìn thấy cả khát vọng gặt chữ của lớp thanh niên trẻ Nậm Khắt để hướng về mùa xuân của bình minh:
"Em xuống trường học chữ
Bố không dặn gì, mẹ không nhắc nhở
Nhưng lần nào em cũng nhớ
Bước chân ra nương
Bước chân về nhà
Bước chân đi xa
Bước chân nào cũng chắc”
Xuyên suốt thống nhất từ nhan đề, bài thơ khép lại với phép điệp "bước chân” nhằm khẳng định tính chất chắc chắn trong những suy nghĩ, việc làm, hành động của người dân trong hành trình tạo dựng cuộc sống của chính mình và bản làng.
Những bài thơ xuân của ba nữ tác giả trẻ của làng văn nghệ Yên Bái mở ra trong lòng độc giả những tín hiệu nảy mầm của mùa xuân. Một mùa mới đã bắt đầu, lòng người như đơm hoa với khát khao được làm "Một mùa xuân nho nhỏ”.
Lưu Khánh Linh (Trường THPT Cảm Ân, huyện Yên Bình)