Trời Điện Biên mây trắng
- Cập nhật: Thứ hai, 21/4/2014 | 2:24:10 PM
YBĐT - Đấy là tập thơ do nhà thơ, soạn giả Gia Dũng dày công tuyển chọn và biên soạn nhân dịp cả nước kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Cuốn sách như thước phim tái hiện chiến công hào hùng của chiến thắng Điện Biên “chấn động địa cầu: cùng cảnh vật và con người nơi đây (Nhà xuất bản Văn học năm 2014).
|
Có thể điểm qua một số bài thơ như những điểm nhấn của cả tập. Bài “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ” của Hồ Chí Minh viết ngày 12/5/1954 đã khắc họa rõ nét diễn biến trận đánh: “20.11 năm cũ/ Giặc Pháp nhảy dù Điện Biên Phủ/ Hăm mốt tiểu đoàn tinh nhuệ nhất”.
Bằng lực lượng hùng hậu cùng trang thiết bị vũ khí hiện đại, thực dân Pháp tin rằng: “Phen này Việt Minh phải biết tay”. Trong khi bên ta: “Bộ đội dân công quyết một lòng/ Xẻ non, đắp suối, vượt qua sông”. Chính tinh thần đoàn kết quân dân như một đã làm nên sức mạnh vô địch: “Thế là quân ta đã toàn thắng.., /Chiến sĩ viết thư lên Bác Hồ/ Món quà chúc thọ sinh nhật Bác”.
Còn bài: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu lại diễn tả không khí hào hùng của chiến thắng, đất trời và lòng người như cùng reo lên trong niềm vui chiến thắng: “Tin về nửa đêm/ Hỏa tốc hỏa tốc/ Ngựa bay lên dốc/ Đuốc cháy sáng rừng...” và đặc biệt hình ảnh người chiến sĩ Điện Biên cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp được khắc họa như tượng đài bất tử: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp”. Tác giả trải lòng trong hồi ức hào hùng của cuộc chiến: “Kháng chiến ba ngàn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực”.
Những câu thơ tái hiện những bước chân rầm rập ra trận cùng bao anhh hùng liệt sĩ đã hy sinh để có chiến thắng hôm nay: “Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng". Không những thế nhà thơ còn nhận rõ: “Và trận thắng Điện Biên/ Mới là trận thắng đầu tiên”. Câu thơ mang tính dự báo chính xác quá trình đấu tranh giải phóng đất nước của dân tộc ta.
Bài thơ “Điện Biên phủ ngọn lửa anh hùng ca” của Nông Quốc Chấn đã rất khéo léo dùng hình tượng “lửa” để xóa nhòa những thương đau, mất mát trên chiến trường xưa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong trái tim mỗi người: “Mùa xuân năm một chín bảy tư (1974)/ Chúng ta kéo về đồi Him Lam, đồi A1/ Ta phát quang, ta đốt/ Lửa lên từng ngọn lửa reo/ Lửa ơi! Đừng cháy xém đất thương yêu/ Lửa hãy đốt ra tro tàn rác rưởi/ Lửa hãy soi những đường hầm, hang tối. Điện Biên Phủ - Lửa chân lý sáng ngời”.
Đấy là ngọn lửa của chính nghĩa, của niềm tin và hy vọng để rồi trên chiến trường xưa: “Từ ngày ấy Điện Biên Phủ vàng son/ Giữa rừng ban mỗi mùa hoa nở trắng/ Giữa Mường Thanh lúa chiêm mùa thơm ruộng/ Giữa Việt Nam đất nước Hồ Chí Minh”. Tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu với lãnh tụ tối cao cùng ý thức công dân được diễn tả thật dung dị nhưng sâu sắc.
Để có chiến thắng Điện Biên “chấn động địa cầu” đã có không biết bao anh hùng liệt sĩ. Bài “Mộ Bế Văn Đàn” của Xuân Diệu như một khoảng lặng của lòng tri ân: “Thời gian dừng bước, lặng im/ Bên mồ liệt sĩ trái tim ta dừng/ Trái tim ta cũng ngập ngừng/ Nửa chừng giọt lệ, nửa chừng lời ca/ Ánh ngày nghiêng xuống cùng ta/ Nghẹn ngào đặt một vòng hoa tinh thần”.
Tấm gương Bế Văn Đàn lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc: “Không giữ cho mình chỉ là hài cốt”, thân thể anh hòa vào đất mẹ, để rồi: “Đất Tổ quốc là một nền nhung đỏ/ Thấm máu người anh hùng, nẩy những mùa xanh”.
Bài “Nơi anh Diện nằm – Mùa xuân” của Phạm Đức như một sự tiếp nối quá khứ hiện tại và tương lai. Sự hy sinh của người anh hùng Tô Vĩnh Diện ươm những mùa xuân cho đất nước: “Mùa xuân tới chỗ anh nằm/ Bằng vòng hoa trắng lặng thầm dâng hương/ Nghìn cân thép nghiến vai thường/ Để chân trẻ nhẹ đến trường hôm nay”.
Nhà thơ Chu Thùy Liên trong bài “Điện Biên Đông” lại cất lên tiếng gọi tha thiết tự đáy lòng qua hình tượng những cung đường: “Có những đường vòng/ Xoáy hình trôn ốc/ Có những cua tay áo ngược đi lên/ Có những rừng cây đan tay trong bão lốc”. Đấy có thể là những con đường ngoài đời nhưng cũng có thể là con đường mỗi người đến với chân lý: “Có những con người sống chết cho đại ngàn thêm tươi”.
Sự hy sinh của bao người: “Gieo xanh lúa, gieo xanh đậu đỗ/ Trồng tre, keo tiếp điệp trùng màu xanh”. Lời mời gọi ở cuối bài thơ thấm mát tình người, không chỉ là lời của tác giả mà còn như lời từ lòng đất: “Em về Điện Biên Đông với anh đi/ Đất linh xưa/ Ta chung tay viết trang sử mới/ Điện Biên Đông anh tha thiết lời mời”.
Bài “Lên đồi Phan Đình Giót” của Lê Thành Nghị lại triển khai trên một tứ mới, không có sự hô hào nhưng những câu thơ nhẹ nhàng thấm vào lòng người đọc: “Ngọn đồi nhô vượt sau màu cây/ Như trái tim nhô lên mặt đất/ Sau màu lá trái tim ấy đập/ Cả đồi lau xô dạt trong chiều”.
Ta như thấy mối giao hòa âm dương và anh linh của các anh hùng, liệt sĩ mãi đồng hành cùng chúng ta: “Anh nằm xuống đầu mùa hạ ấy/ Để lửa còn cháy mãi giữa ngàn lau”.
Bài “Mộ chiến sĩ trên đồi A2” của Nguyễn Đức Mậu lại dành tình cảm cho những liệt sĩ vô danh: “Tấm bia trắng không dòng tên họ/ Không năm sinh, không đề dấu thôn làng/ Như tất cả cuộn thành tiếng nổ/ Ném vào hầm ngầm, ụ súng, xe tăng”. Tác giả lặng đi trong sự thương cảm, xúc động vô bờ: “Như tất cả anh gửi cho đất/ Tôi lặng nhìn đồi A1 thấy hình anh”.
Cái “nhìn” đầy tình người và lòng biết ơn như nói giùm tâm tư của bao người: “Vòm trời của anh lợp bằng lá cỏ/ Cuộc đời vô danh, nắm đất chẳng nhiều lời/ Ngôi sao của anh mọc lên từ bia đá/ Không phải ngôi sao xa lạ của vòm trời”. Bài thơ khép lại nhưng đầy day dứt, ám ảnh về lương tri: “Anh chào đời năm nào tôi không biết/ Có những con người ngày chết hóa ngày sinh”.
Điện Biên như một địa chỉ đỏ thiêng liêng gọi mỗi người trở về tìm lại một thời đẹp nhất của dân tộc. Bài “Điện Biên gọi tôi lên” của Nguyễn Hữu Quí là một bài như thế. Đấy là âm hưởng hào hùng của tiếng hò kéo pháo năm xưa: “Có phải tiếng hò kéo pháo gọi tôi lên/ Hay ban trắng triền xuân còn dâng đợi/ Nậm Rốm tím sương chiều chờ tôi đến/ Mường Thanh líu ríu câu mời”. Bước chân líu ríu ấy sao mà thấm đượm tình người đến thế, để rồi khi được đắm mình trong không gian thân thiết, dung dị, tác giả không cầm lòng được: “Có gì đâu măng đắng, cơm lam/ Hóa thơm thảo sông mường, ruộng bản/ Điện Biên ạ, mai xa rồi, nhớ lắm/ Tôi hẹn về bên núi và em”.
Tập thơ “Trời Điện Biên mây trắng” gồm 139 bài, riêng Yên Bái có tới 11 tác giả, gần 20 bài thơ như: Ngọc Bái, Thế Sinh, Hoàng Bảo, Nguyễn Thị Vân Hà, Hoàng Hạnh, Trần Thị Nương, Hiền Lương, Nguyễn Ngọc Trìu, Vân Hạc, Hoàng Anh Đậu... Đây là đóng góp không nhỏ của các nhà thơ Yên Bái.
Trong tập thơ, nhiều nhà thơ đã mất, không ít nhà thơ chưa có tên tuổi trên thi đàn nhưng cái chung nhất của tập thơ là tình cảm chân thành, sâu sắc với chiến thắng to lớn của dân tộc cùng sự hy sinh của bao người.
Mỗi bài như một nén tâm hương thơm ngát rừng Điện Biên, kết hợp khá nhuần nhuyễn yếu tố yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình làm cho bài thơ đa thanh, đa nghĩa, chuyển tải được những ý tưởng sâu sắc. Tập thơ tuy chỉ giới hạn trong thời gian từ năm 1954 đến năm 2014 nhưng mở ra một không gian to đầy hào khí của dân tộc trong các cuộc đấu tranh vệ quốc.
Trần Vân Hạc
Các tin khác
YBĐT - Đề án “Xây dựng trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2010 - 2015” là mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của giáo dục vùng cao, vùng dân tộc, vùng đồng bào khó khăn.
YBĐT - Trong những ngày này, nhân dân xã Đại Phác huyện Văn Yên (Yên Bái) đang ra sức thi đua lao động, sản xuất hoàn thành kế hoạch 6 tháng đầu năm 2014, hướng tới kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ với những công trình, phần việc thật ý nghĩa như: mở đường giao thông thôn Đại Phác, làm mặt bằng nhà văn hóa thôn Tân Minh…
YBĐT - Trong những ngày đầu tháng Tư này, chúng tôi có dịp trở lại xã Tân Đồng (huyện Trấn Yên). Đi đến đâu cũng bắt gặp một khí thế sôi nổi, tất bật.
Qua lời giới thiệu của những chiến sĩ Điện Biên năm xưa, chúng tôi tìm đến ngôi nhà số 89 đường Quan Hoa, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy thăm ông Nguyễn Văn Tiệp, cán bộ ngành thương mại nghỉ hưu. Năm nay 84 tuổi, tay đã run run do tuổi tác, nhưng nhắc đến những ngày đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ 60 năm trước, giọng ông vẫn hồ hởi: "Gian khổ lắm, nhưng vui, lạc quan lắm".