Trăn trở “cây triệu đô”

  • Cập nhật: Thứ sáu, 19/6/2015 | 9:21:40 AM

YênBái - YBĐT - Từ vai trò là một cây lương thực, sắn đã “vươn mình” trở thành “cây triệu đô” trên đồng đất Văn Yên. Đó là nhờ cái nhìn đúng hướng, hành động kiên quyết thay thế toàn bộ giống sắn địa phương bằng giống sắn cao sản gắn với chế biến.

Dây chuyền chế biến tinh bột sắn của Nhà máy Chế biến sắn Văn Yên.
Dây chuyền chế biến tinh bột sắn của Nhà máy Chế biến sắn Văn Yên.

Thế nhưng, đến nay “cây triệu đô” này vẫn chưa được xác định chỗ đứng đúng mức, từ đó thiếu chính sách hỗ trợ phát triển cụ thể. Điều này khiến cả doanh nghiệp cũng như người nông dân trồng sắn phải chịu cảnh thiệt thòi, bấp bênh.

Nói đến cây sắn, đến công nghiệp chế biến sắn Yên Bái, người ta nghĩ ngay đến Văn Yên. Với gần 8.000ha, sản lượng hàng năm đạt từ 160.000 đến 180.000 tấn sắn củ tươi, từ lâu Văn Yên đã được coi là “thủ phủ” của sắn. Mỗi năm, nông dân Văn Yên thu về trên 200 tỷ đồng, trong đó sản phẩm tinh bột sắn, sắn lát khô đã được xuất sang thị trường nhiều nước lớn như: Trung Quốc, Philippin, Hàn Quốc... với trị giá gần chục triệu đô mỗi năm.

Thế nhưng, ít ai biết rằng cách đây hơn 15 năm, cây sắn ở Văn Yên cũng chỉ được trồng xen canh, làm thức ăn chăn nuôi như bao địa phương khác, diện tích cũng chẳng lớn. Nhưng rồi, bằng cái nhìn chiến lược, sự vào cuộc mạnh dạn của doanh nghiệp, sự đồng lòng của nông dân, Văn Yên đã hiện thực hóa tiềm năng to lớn của “cây triệu đô” trên vùng đất này. Đến giờ, người ta vẫn rỉ tai nhau rằng: hồi đó các vị lãnh đạo Công ty cổ phần Nông lâm sản Yên Bái đã cùng với các vị lãnh đạo tỉnh đi khắp trong Nam ngoài Bắc để tìm giống sắn tốt cho huyện. Rồi lại lấy mẫu đất ở Văn Yên đưa sang tận Thái Lan phân tích, nghiên cứu xem có phù hợp với cây sắn cao sản hay không. Nhiều giống sắn cao sản KM94, KM60 và HN124... lần lượt được đưa về để thay thế giống sắn địa phương. Xa hơn, doanh nghiệp quyết định bỏ ra gần 50 tỷ đồng đầu tư nhà máy chế biến tinh bột.

Sắn đã lên đồi, nhưng để chúng bén rễ và phát triển ổn định như hôm nay không thể không nói tới sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền và nhân dân huyện Văn Yên. Đó là cả một quá trình dài với những khó khăn và cả những câu chuyện dở khóc, dở cười. Anh Trần Thống Nhất, khi ấy là cán bộ khuyến nông trẻ tuổi rất năng nổ, nhiệt huyết (nay đã chuyển về Phòng Tài nguyên -Môi trường huyện) đem cái kỹ thuật “canh tác sắn bền vững” đến với từng hộ dân. Anh vẫn chưa quên kỷ niệm lần đầu hướng dẫn một hộ dân xã An Bình làm canh tác sắn bền vững. Mọi việc sẽ suôn sẻ nếu hôm đó trời không mưa bão làm cuốn bay toàn bộ diện tích sắn và đường băng của hộ dân đó xuống ao dưới chân đồi. Vậy là, kết quả chả thấy đâu mà mỗi lần gặp lại anh vẫn bị chủ hộ nhắc lại kỷ niệm khóc dở, mếu dở này.

Rồi ngay cả chị Trần Thị Bích Huề - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện cũng nhiều năm phải bám đất, bám đồi từ Mậu Đông, Đông Cuông cho đến An Bình, Đông An để làm canh tác sắn bền vững. Đi đến đâu, chị cũng phải trả lời những thắc mắc của người dân: “Tại sao phải làm đường băng, phải trồng cây cốt khí, trong khi vừa làm mất hàng sắn, lại mất thời gian làm, chăm sóc…?”.

Thế nhưng, bằng sự kiên trì trong tuyên truyền, vận động, bằng hiệu quả rõ rệt từ những mô hình điểm và bằng những gốc sắn ngày càng sai củ những người làm nông nghiệp, chính quyền địa phương đã làm thay đổi nhận thức của người dân. Đến nay, diện tích sắn được duy trì ổn định với gần 8.000 ha. Trong đó, 3.792 ha được nông dân sử dụng biện pháp canh tác bền vững. Mỗi năm Văn Yên thu về hàng triệu đô từ việc xuất khẩu tinh bột sắn và sắn lát khô. Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn và các đồng chí lãnh đạo tỉnh cây sắn ở Văn Yên thành công, cho hiệu quả kinh tế cao là do huyện đã xây dựng được mô hình hoàn thiện từ canh tác đến chế biến. Cây sắn không chỉ trở thành cây mũi nhọn xóa nghèo mà còn làm giàu cho nông dân trong huyện.

Vị thế của cây sắn đã được khẳng định, không chỉ là cây xóa nghèo, làm giàu cho nông dân mà còn là sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực của huyện Văn Yên nói riêng và Yên Bái nói chung. Vậy nhưng, thực tế cây sắn thường xuyên rơi vào cảnh bấp bênh, “được mùa, rớt giá”. Ngay như niên vụ sắn 2014 - 2015 vừa qua, giá sắn xuống thấp, bình quân từ 1.100 đồng đến 1.200 đồng/kg khiến nhiều người dân không dám thu hoạch vì lỗ. Vì thế, trong khi hàng năm cứ đến tháng 2, tháng 3 là nông dân tất bật phát dọn thực bì, trồng vụ mới nhưng năm nay nương đồi im lìm, cỏ cây ngổn ngang như khi vừa thu hoạch xong, thậm chí một số diện tích còn chưa thu hoạch.

Theo nhiều người, thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: trước hết đó là sự phát triển ồ ạt, không theo qui hoạch, mạnh ai nấy làm. Trong khi Nhà máy chế biến tinh bột sắn đóng trên địa bàn hoạt động hết công suất cũng chỉ tiêu thụ khoảng 80.000 tấn sắn củ tươi/niên vụ, tức khoảng 50% sản lượng sắn của Văn Yên. Số còn lại trông chờ vào các lò sấy sắn thủ công và phụ thuộc vào tư thương. Bên cạnh đó, các sản phẩm xuất khẩu từ sắn mới chỉ dừng lại ở dạng thô như tinh bột sắn, sắn lát khô giá trị thấp, và phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Sắn là “cây triệu đô”, mỗi năm mang về trên 200 tỷ đồng cho nông dân Văn Yên, thế nhưng “bài toán” được mùa mất giá của loại cây này vẫn chưa có lời giải. Điều này, cho thấy rõ ràng cây sắn vẫn chưa được nhìn nhận một cách công bằng. Bao năm qua, cây sắn vẫn chịu tiếng xấu là thủ phạm làm bạc đất và chưa được quan tâm khi các chính sách hỗ trợ cho cây sắn vẫn thiếu và ít, khiến năng suất, canh tác, sản xuất sâu sau chế biến vẫn vấp phải những hạn chế lớn. 

 

Cán bộ xã An Bình hướng dẫn người dân trồng cỏ voi làm đường băng canh tác sắn bền vững.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong hơn 12 năm bén rễ ở Văn Yên, đến nay cây sắn vẫn là cây có năng suất, giá trị kinh tế cao, góp phần nâng cao đời sống cho người dân. Còn nếu bảo sắn là cây làm sói mòn, cạn kiệt tài nguyên đất thì rõ ràng đây là nhận định không chính xác. Bởi, đã trồng sắn thì phải gắn với canh tác bền vững, phải tái đầu tư dinh dưỡng cho đất chứ không phải kiểu làm được chăng hay chớ. Ở đây, nguyên nhân của sự thoái hóa là do phương pháp canh tác, chứ không phải cây sắn. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát mới đây cũng thừa nhận rằng: “Sắn là cây trồng đem lại cơ hội lớn để tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân. 10 năm trước tôi đã ký chỉ thị yêu cầu các địa phương kiểm soát diện tích trồng sắn vì hại đất. Tuy nhiên, vài năm gần đây, chúng tôi đã khẳng định cây sắn không có lỗi, do đó chúng ta phải có cách tiếp cận mới về cây sắn, ứng xử phù hợp”.

Rõ ràng, để cây sắn phát triển bền vững, trước mắt và lâu dài cần đưa vào sản xuất những giống sắn có năng suất cao cũng như đầu tư thâm canh, xen canh hiệu quả. Hiện năng suất bình quân của cây sắn Văn Yên đạt khoảng 22 tấn/ha, bằng với mức trung bình của cả nước nhưng so với một số tỉnh ở Tây Nguyên và nhiều nước trên thế giới năng suất trên vẫn còn rất thấp. Cùng với đó, các địa phương cần quản lý, quy hoạch tốt diện tích sắn và phải có chế tài quản lý, tuyệt đối không phá vỡ quy hoạch. Gắn vùng nguyên liệu với chế biến để bảo đảm khâu tiêu thụ.

Ngoài ra, về lâu dài mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp chế biến cần chặt chẽ, thống nhất như: tăng cường hỗ trợ giống, các biện pháp canh tác, thu mua sản phẩm… Ngược lại, nông dân cũng cần nghiêm túc thực hiện các biện pháp canh tác bền vững và bán sản phẩm cho nhà máy như đã cam kết. Giai đoạn 2011 - 2015, Văn Yên thực hiện canh tác bền vững trên đất dốc được khoảng 3.792ha, nghĩa là mới chỉ bằng gần 50% diện tích sắn toàn huyện, trong đó chỉ có 1.524ha là canh tác lâu dài. Điều này, đòi hỏi phải có nhiều hơn chính sách, sự hỗ trợ để đưa toàn bộ cây sắn vào canh tác bền vững, đảm bảo sự ổn định và nâng cao năng suất.

Ông Doãn Văn Thủy - Phó chủ tịch UBND huyện Văn Yên cho biết: Thời gian tới, huyện Văn Yên tập trung hướng tới chất lượng của các biện pháp canh tác bền vững, thực hiện sao cho vừa bảo vệ môi trường, bảo vệ độ phì của đất, hạn chế rửa trôi đất vừa nâng cao năng suất, chất lượng sắn củ bằng các biện pháp bón phân cân đối để nâng cao hàm lượng tinh bột trong củ sắn tươi. Quan trọng hơn, Văn Yên tăng cường xây dựng mối liên kết giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nhà máy chế biến sắn, bảo đảm vùng nguyên liệu và hoạt động chế biến của nhà máy một cách bền vững.

Hùng Cường

Các tin khác

YBĐT - Bằng ý chí, nghị lực của bản thân, chàng trai trẻ Nguyễn Cao Cường- đoàn viên thanh niên thôn Tồng Táng, xã Minh Tiến, huyện Lục Yên (Yên Bái) đã vượt qua khó khăn, vươn lên phát triển kinh tế và làm giàu với mô hình xưởng sản xuất, chế biến lâm sản cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Nông dân cánh đồng Mường Lò đưa cơ giới vào phục vụ sản xuất. (Ảnh: Đoàn Thanh Hà)

YBĐT - Đến nay, tỉnh Yên Bái đã có 2 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM). Song bên cạnh thành công đó, vẫn còn hàng loạt vấn đề khó khăn khách quan do đặc thù của các xã miền núi...

Cán bộ Công an huyện Văn Yên thường xuyên thăm hỏi, động viên giúp đỡ gia đình có lao động xuất cảnh trái phép.

YBĐT - Những năm gần đây, người dân ở một số xã của huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái lại rộ lên phong trào "xuất ngoại" sang Trung Quốc lao động. Những tưởng cuộc sống mới nơi đất khách quê người sẽ đem lại cho họ cơ may đổi đời, thì giờ đây nhiều người phải sống trong cảnh mất tự do, hiểm nguy luôn rình rập cũng chỉ bởi ra nước ngoài lao động tự do bằng con đường bất hợp pháp.

YBĐT - Ngoài cánh đồng Mường Lò rộng thứ nhì vùng Tây Bắc, vùng chè hàng vạn héc-ta xếp vào tốp đầu cả nước, Yên Bái còn được biết đến như một địa phương giàu tiềm năng về nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Những chính sách khuyến khích của tỉnh cùng sự nỗ lực của người nông dân đang biến tiềm năng thành lợi thế.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục