PV: Thưa đồng chí! Xin đồng chí đánh giá khái quát những kết quả về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS của tỉnh Yên Bái đã đạt được trong thời gian qua?
Đồng chí Lê Trí Hà: Trong những năm qua, Yên Bái đã luôn xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS là nhân tố quan trọng có thể tạo ra sự đột phá, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, giúp một tỉnh miền núi khó khăn như Yên Bái có thể đi tắt đón đầu, đi sau về trước. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS; người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính để thực hiện.
Để cụ thể hóa quan điểm đó, Sở Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đã tích cực tha mưu cho tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành kịp thời, đầy đủ. Điển hình là Kế hoạch số 219-KH/TU ngày 17/02/2025 triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia, Kế hoạch số 46/KH-UBND ngày 28/02/2025 thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về cùng nội dung; Nghị quyết số 51-NQ/TU ngày 22/7/2021 của Tỉnh ủy Yên Bái về CĐS tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Có thể nói, với những nỗ lực, quyết tâm vượt bậc của cả hệ thống chính trị của tỉnh, đặc biệt là với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, đến nay cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS của tỉnh Yên Bái đã vươn lên ở mức khá, dần theo kịp các tỉnh trong khu vực và trong cả nước.
Điển hình như, đến nay, 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã có đường truyền băng thông rộng cáp quang. Toàn tỉnh có 1.223 vị trí trạm thu phát sóng di động, 40 trạm di động 5G. Đã đưa vào khai thác sử dụng hiệu quả Trung tâm tích hợp dữ liệu điện tử tỉnh Yên Bái (DC); nền tảng liên thông tích hợp (LGSP) kết nối với nền tảng liên thông, tích hợp quốc gia (NDXP) để gửi nhận văn bản, dữ liệu với các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh; Hệ thống mạng truyền số liệu chuyên dùng (TSLCD) với 425 đường truyền triển khai cho các cơ quan, đơn vị, địa phương. Hệ thống đăng nhập một lần (SSO) đã được kết nối, tích hợp với các nền tảng ứng dụng dùng chung của tỉnh với tổng số gần 15.000 tài khoản người dùng.
Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến đã triển khai 211 điểm cầu, kết nối từ tỉnh đến cấp huyện và được mở rộng đến 168/168 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước được trang bị máy tính, kết nối Internet phục vụ công việc tại cấp tỉnh, huyện, xã đạt 100%. 100% các giao dịch trên Cổng dịch vụ công tỉnh và hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh, huyện, xã được xác thực điện tử. Có có gần 6.800 hộ kinh doanh (81,3% tổng số hộ kinh doanh) nộp thuế qua ứng dụng EtaxMobile.
Các chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã triển khai mạnh mẽ dịch vụ ngân hàng điện tử; đến nay, tỷ lệ người dân trưởng thành trên địa bàn tỉnh sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đạt 82%. Trên 396.390 tài khoản định danh điện tử được kích hoạt mức độ 2 trên nền tảng VneID. Cổng Dịch vụ công của tỉnh đã kết nối với 25 cơ sở dữ liệu chuyên ngành, thực hiện công khai và đầy đủ 25/25 dịch vụ công thiết yếu trên Cổng Dịch vụ công tỉnh Yên Bái để người dân, doanh nghiệp tra cứu, nộp hồ sơ trực tuyến.
Toàn tỉnh hiện có 368 người có trình độ từ cao đẳng trở lên tại các sở, ban, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp tham gia nghiên cứu khoa học, tham gia Hội đồng đánh giá các Đề tài khoa học, sáng kiến cấp tỉnh, đạt tỷ lệ 4,3 người/vạn dân. Số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế trên địa bàn tỉnh tăng trung bình 12% - 14%/năm, dự kiến sẽ tăng lên 16-18% năm giai đoạn tới.
Đến nay, 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã có đường truyền băng thông rộng cáp quang. Toàn tỉnh có 1.223 vị trí trạm thu phát sóng di động, 40 trạm di động 5G.
PV: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia có ý nghĩa như thế nào trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh để cùng với cả nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, thưa đồng chí?
Đồng chí Lê Trí Hà: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ với sự phát triển vượt bậc của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tự động hóa đã tác động nhanh, sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội, làm thay đổi toàn diện phương thức sống, làm việc của con người. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS đã trở thành yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia và các tỉnh trên cả nước.
Tỉnh Yên Bái với vị trí nằm ở trung tâm của vùng Trung du và miền núi phía Bắc, cửa ngõ của khu vực Tây Bắc với nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú; đồng bào các dân tộc trong tỉnh có truyền thống đoàn kết, cách mạng, với nhiều bản sắc văn hóa tốt đẹp, đặc sắc; cùng với những thành tựu nổi bật của đất nước, của tỉnh đã đạt được trong những năm qua.
Sự ra đời của Nghị quyết 57-NQ/TW thực sự là nhân tố đột phá, là kim chỉ Nam cho công cuộc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS của quốc gia nói chung và của tỉnh yên Bái nói riêng. Nghị quyết 57-NQ/TW sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và góp phần ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa tỉnh Yên Bái phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Để cụ thể hóa Nghị quyết 57-NQ/TW, Sở Khoa học và Công nghệ cũng đã kịp thời tham mưu cho tỉnh đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để quyết tâm tổ chức thực hiện trong giai đoạn tới, cụ thể như: Phấn đấu đến năm 2030, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh ở mức trên 55%; kinh tế số chiếm từ20% GRDP của tỉnh trở lên, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người, nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh; xếp hạng Chỉ số chuyển đổi số (DTI) tỉnh Yên Bái duy trì trong nhóm TOP 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...
PV: Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 57, theo đồng chí, đâu là giải pháp mới, mang tính đột phá?
Đồng chí Lê Trí Hà: Để triển khai hiệu quả Nghị quyết 57, thứ nhất, cần phải có tầm nhìn rõ ràng. Kế hoạch số 219-KH/TU ngày 17/02/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định "Đến năm 2045, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Yên Bái trở thành tỉnh phát triển toàn diện, bền vững, xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc; thuộc nhóm các tỉnh phát triển hàng đầu trong vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ".
Đây là những mục tiêu có nhiều thách thức, muốn đạt được đòi hỏi chúng ta tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS, nghiên cứu xây dựng và triển khai các chương trình, đề án trọng điểm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS, chú trọng vào lĩnh vực có thế mạnh hoặc có tiềm năng của tỉnh, như: Nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp bán dẫn, thương mại, dịch vụ, du lịch… Đặc biệt là phải huy động được sự tham gia tích cực từ xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, người dân trên địa bàn toàn tỉnh.
Thứ hai, là cần có những đột phá trong tư duy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ và sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để đảm bảo nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao trong cả hệ thống chính trị và trong toàn xã hội.
Thứ ba, là cần tăng cường nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tỉnh cũng đã xác định mục tiêu phấn đấu, cụ thể là đến năm 2030 kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt khoảng 2% GRDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm khoảng 60%; phấn đấu bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, CĐS và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
Thứ tư, chính là tính khả thi và phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh trong quá trình tổ chức thực hiện. Sở Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục tham mưu cho tỉnh để phát huy những kết quả, bài học kinh nghiệm đã tích lũy được trong những năm qua trong phát triển khoa học, công nghệ và CĐS, đặc biệt là cách làm mới, riêng có của tỉnh Yên Bái trong triển khai Nghị quyết 51-NQ/TU ngày 22/7/2021 của Tỉnh ủy Yên Bái về CĐS tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, trong đó khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của sự phát triển; linh hoạt, sáng tạo với tinh thần "dễ làm trước, khó làm sau”, "đồng thời từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”.
PV: Nhân lực, cùng với thể chế, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược, được xác định là những nội dung trọng tâm, cốt lõi và một trong những nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết 57 là phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia. Về đào tạo nguồn nhân lực, theo đồng chí tỉnh ta cần tập trung vào những vấn đề gì?
Đồng chí Lê Trí Hà: Nhân lực là yếu tố then chốt quyết định thành công của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS. Do đó, trong thời gian tới theo tôi tỉnh Yên Bái cần có cách tiếp cận toàn diện, và tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn sâu, có chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quan trọng của tỉnh đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS. Đồng thời, có chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ tốt hơn để thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao, nhất là các cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ chuyên môn cao, sinh viên xuất sắc tại các trường Đại học, cán bộ khoa học trẻ có năng lực và trình độ về làm việc, tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại tỉnh.
Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác với các trường Đại học uy tín trong nước xây dựng một số ngành đào tạo chuyên sâu về dữ liệu, trí tuệ nhân tạo tại các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh. Triển khai nền tảng giáo dục - đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số gắn liền với thực tế để nâng cao năng lực số của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, tăng cường đào tạo kiến thức về khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực tin học, ngoại ngữ, rèn luyện năng lực thiết kế sáng tạo gắn kết với các chương trình giảng dạy; tăng cường định hướng nghề nghiệp và tư vấn theo đuổi khoa học, kỹ thuật và ngành kỹ thuật trong các trường học phổ thông để chủ động, chuẩn bị nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong tương lai.
Thứ ba, xây dựng cộng đồng khởi nghiệp thúc đẩy kinh tế chia sẻ thông qua việc sử dụng các nền tảng số; hỗ trợ, khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh khởi nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS.
Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập, lao động sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị. Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức các cuộc thi, giải thưởng công nghệ thông tin, sáng tạo khoa học kỹ thuật của tỉnh; tôn vinh các sáng chế, giải pháp hữu ích, danh hiệu tri thức tiêu biểu trên địa bàn tỉnh.
Pv: Xin trân trọng ơn đồng chí!
Thực hiện: Đức Toàn