Các bộ, ngành Trung ương trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Yên Bái gửi đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII

  • Cập nhật: Thứ ba, 17/6/2014 | 9:10:48 AM

YBĐT - Thời gian qua, cử tri tỉnh Yên Bái đã có nhiều ý kiến với các bộ, ngành Trung ương qua các buổi tiếp xúc cử tri của các đoàn đại biểu quốc hội tại cơ sở. Sau đây là một số nội dung của các bộ, ngành Trung ương trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Yên Bái gửi đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII.

1. Thực hiện Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan Trung ương đã được hưởng chính sách quy định tại Nghị định; còn cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân (UBND) các cấp thì lại không được hưởng chính sách. Đề nghị Bộ Nội vụ có ý kiến và trả lời rõ, các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND các cấp đang công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc diện được hưởng chính sách này không.

Bộ Nội vụ trả lời tại Công văn số 687/BNV-TL, ngày 4/3/2014:

Căn cứ Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2011 hướng dẫn thực hiện. Trong đó đã quy định rõ cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm người đang công tác và người đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn) kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2011 được áp dụng chính sách quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP. Như vậy, cán bộ, công chức, viên chức, thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND các cấp nếu công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thuộc đối tượng áp dụng Nghị định số 116/2010/NĐ-CP.

2. Hiện nay, việc sử dụng thuốc trừ cỏ tràn lan, không có nguồn gốc xuất xứ, có tác hại và ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái, đến sức khỏe, sinh hoạt đời sống của người dân. Đề nghị Quốc hội nghiên cứu và giao cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giám sát chuyên đề về tác động của các loại thuốc trừ cỏ, đưa ra giải pháp hữu hiệu để đảm bảo việc quản lý và sử dụng các loại thuốc trừ cỏ.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời tại Văn bản số 648/BNN-BVTV, ngày 25 tháng 2 năm 2014:

Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành (trong đó bao gồm cả thuốc trừ cỏ) đều đã được thực hiện đầy đủ quy định chặt chẽ về đăng ký. Các quy định này ngày càng hoàn thiện và hài hòa với các quy định quốc tế, theo nguyên tắc loại bỏ dần thuốc BVTV có độc tính cao, ảnh hưởng đến môi trường.

3/10 Bản chất đăng ký thuốc BVTV là quá trình xem xét tất cả các yếu tố liên quan đến thuốc BVTV như độc tính của thuốc, ảnh hưởng đối với người và môi trường, hiệu lực sinh học của thuốc đối với sinh vật gây hại. Các thuốc độc hại, có nguy cơ cao với người và môi trường không được đăng ký vào Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam.

Do vậy, để hạn chế tác hại của thuốc BVTV, đảm bảo an toàn cho sức khỏe người dân và môi trường, cần phải tăng cường ứng dụng các biện pháp quản lý dịch hại bền vững như kỹ thuật canh tác lúa cải tiến (SRI), 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, quản lý tổng hợp (IPM)...

Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật sự cần thiết và phải đảm bảo tuân thủ theo quy định tại Chương VII (Sử dụng thuốc BVTV) của Thông tư 03/2011/TT-BNN&PTNT với các nội dung như:chỉ rõ phạm vi thuốc được phép sử dụng (chỉ thuốc trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng), phương thức sử dụng (theo đúng hướng dẫn trên nhãn; đảm bảo nguyên tắc “bốn đúng” (đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng và nồng độ, đúng cách) và phải tuân thủ thời gian cách ly ghi trên nhãn; cấm sử dụng thuốc ngoài danh mục trên, thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có nhãn hoặc nhãn chỉ ghi tiếng nước ngoài. Mặt khác, Chương này cũng quy định trách nhiệm của người sử dụng thuốc BVTV và trách nhiệm của các cơ quan quản lý và đơn vị kinh doanh thuốc BVTV liên quan đến việc sử dụng thuốc BVTV.

3. Đề nghị Bộ Y tế chịu trách nhiệm trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực thẻ bảo hiểm y tế (BHYT).

Bộ Y tế trả lời tại Công văn số 746/BYT-VPB1 ngày 24/2/2014:

Khoản 5, Điều 7, Nghị định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính đã quy định phải bảo đảm nguyên tắc: “Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của các quy định về thủ tục hành chính; thủ tục hành chính phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định trên cơ sở bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của các quy định về thủ tục hành chính; thủ tục hành chính phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định trên cơ sở bảo đảm tính liên thông giữa các thủ tục hành chính liên quan, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch, hợp lý; dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan nào, cơ quan đó phải có trách nhiệm hoàn chỉnh.

Để tăng cường công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực thẻ BHYT và bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong quá trình tổ chức thực hiện, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT trình Quốc hội kỳ họp thứ 6, tháng 10/2013 đã sửa đổi bổ sung Điều 16, 17 của Luật theo hướng: giao tổ chức Bảo hiểm xã hội ban hành mẫu thẻ BHYT sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Y tế.

4. Việc lấy phiếu tín nhiệm các năm tiếp theo nên nghiên cứu điều chỉnh các mức tín nhiệm cho phù hợp hơn, cụ thể là nên lấy phiếu ở hai mức thay vì ba mức như hiện nay để đảm bảo ý nghĩa của việc lấy phiếu tín nhiệm đồng thời qua đó giúp những người được lấy phiếu tín nhiệm có trách nhiệm cao hơn đối với việc hoàn thành nhiệm vụ mà mình được giao phó.

Ban Công tác Đại biểu trả lời tại Công văn số 157/BCTĐB-CTĐB, ngày 28/3/2014:

Năm 2013, lần đầu tiên Quốc hội và hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Mục đích của việc lấy phiếu tín nhiệm là nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát Quốc hội, hội đồng nhân dân; giúp người được lấy phiếu tín nhiệm thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Hiện nay, ủy ban Thường vụ Quốc hội đang chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tích cực sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 35/2012/QH13 trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII.

Các tin khác

YBĐT - Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn những chính sách ưu tiên giáo dục đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số.

Trước tình hình Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế, ngày 16/6, Bộ Ngoại giao đã tổ chức họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông.

Các đại biểu thảo luận tại hội trường.

YBĐT - Ngày 16/6, tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XIII, phiên họp dưới sự điều khiển của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự án Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi).

Phát biểu tại phiên toàn thể của Hội nghị lần thứ 24 các quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Trưởng đoàn Việt Nam nhấn mạnh Việt Nam luôn là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của Công ước, nghiêm túc thực hiện các quy định của Công ước và nỗ lực góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục