Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đoàn kết, dân chủ; khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế; đẩy mạnh thu hút đầu tư; phấn đấu đưa Yên Bái trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Tây Bắc

  • Cập nhật: Thứ hai, 27/4/2015 | 3:34:45 PM

YênBái -  Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII tại Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh (dự thảo).

Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn đan xen.
Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn đan xen.

Phần thứ nhất
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH
LẦN THỨ XVII, NHIỆM KỲ 2010 - 2015

Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh ta thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn đan xen. Sau khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta phục hồi chậm, doanh nghiệp trong tỉnh cũng như trong cả nước gặp nhiều khó khăn. Đầu tư công giảm mạnh, nội lực của tỉnh hạn chế; lợi thế cạnh tranh thấp, các lĩnh vực sản xuất của tỉnh đều có quy mô nhỏ, công nghệ thấp nên sản xuất hàng hóa thiếu tính cạnh tranh, hiệu quả sản xuất chưa cao; cùng với những khó khăn, bất lợi về thiên tai, dịch bệnh... đã tác động trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của địa phương. Song Đảng bộ tỉnh đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng, kịp thời điều chỉnh các mục tiêu trọng tâm, đề ra các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo, điều hành vào các lĩnh vực then chốt, huy động mọi nguồn lực, sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, vượt qua khó khăn, đạt được kết quả quan trọng và toàn diện.

A- THÀNH TỰU

I- KINH TẾ TIẾP TỤC DUY TRÌ ĐƯỢC ĐÀ TĂNG TRƯỞNG, CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG TỪNG BƯỚC ĐƯỢC CẢI THIỆN

1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (giá cố định 94) đạt 11,33%; trong đó: Nông lâm nghiệp, thủy sản là 5,4%, Công nghiệp - Xây dựng là 11,7%, Dịch vụ là 15,01%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; tỷ trọng ngành Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm từ 24,54% năm 2010 xuống còn 22,92% năm 2015; tỷ trọng ngành Công nghiệp - Xây dựng giảm từ 32,58% năm 2010 xuống còn 32,01% năm 2015; tỷ trọng ngành Dịch vụ tăng từ 42,88% năm 2010 lên 45,07% năm 2015. Tổng sản phẩm trên địa bàn (giá so sánh 2010) năm 2015 đạt 15.548 tỷ đồng, tăng bình quân 10,73%/năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25,02 triệu đồng, tăng 2,1 lần so với năm 2010.

2- Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt được kết quả khá; cơ cấu nội ngành có sự chuyển dịch đúng hướng
Từ đầu nhiệm kỳ tỉnh đã xác định lấy sản xuất nông, lâm nghiệp làm nền tảng để tạo đà phát triển bền vững trong những năm tiếp theo, đã ban hành cơ chế, chính sách và tập trung đầu tư mạnh cho sản xuất nông, lâm nghiệp, được đánh giá là tỉnh có cơ chế, chính sách mạnh nhất trong vùng về hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp.

Cùng với việc ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chế biến nên giá trị sản phẩm tạo ra trên một đơn vị diện tích tăng đáng kể. Một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung đã hình thành rõ nét như vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao 5.500 ha, vùng sản xuất ngô hàng hóa 15.000 ha, vùng sản xuất chè 9.000 ha, vùng sắn cao sản 8.000 ha, măng tre Bát Độ trên 3.000 ha, quế trên 30.000 ha, vùng cây nguyên liệu giấy trên 60.000 ha.

Đã triển khai thực hiện Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất lâm nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2012 - 2015 nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao thu nhập từ rừng, gắn quyền lợi với trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong khai thác và bảo vệ rừng; hằng năm trồng mới bình quân trên 15.000 ha rừng, đưa độ che phủ rừng năm 2015 lên 62%. Quan tâm chỉ đạo phát triển đàn gia súc, gia cầm và phát triển nguồn lợi thủy sản trên diện tích mặt nước hiện có; đàn gia súc chính hằng năm tăng bình quân 1,5% (khoảng 8.900 con), mỗi năm tăng gần 2.000 tấn thịt hơi xuất chuồng các loại. Sản lượng nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản năm 2015 đạt 6.500 tấn, tăng 1,15 lần so với năm 2010.

3- Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng, bước đầu hình thành một số sản phẩm mới có tiềm năng, tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp giai đoạn 2016-2020

Đã quy hoạch và từng bước đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp như: Khu công nghiệp Phía Nam, Minh Quân, Âu Lâu, Bắc Văn Yên ... Các huyện, thị, thành phố cũng đã hình thành được một số khu vực sản xuất công nghiệp như cụm công nghiệp: Thịnh Hưng (Yên Bình), Yên Thế (Lục Yên), Hưng Khánh (Trấn Yên), Sơn Thịnh (Văn Chấn)..., từ đó thu hút được một số doanh nghiệp đầu tư đi vào sản xuất. Năm năm qua, một số dự án đầu tư nhà máy thủy điện, nhà máy khai thác và chế biến khoáng sản đã hoàn thành đi vào sản xuất có hiệu quả, góp phần tăng thêm năng lực sản xuất công nghiệp, đóng góp cho ngân sách, đặc biệt là đã thu hút được 04 dự án đầu tư xây dựng nhà máy may xuất khẩu, góp phần giải quyết một lượng lớn lao động tại địa phương. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.500 tỷ đồng, gấp 1,66 lần so với năm 2010, tốc độ tăng bình quân 5 năm 2011-2015 ước đạt 10,7%. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực và đúng hướng, giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến và tỷ trọng ngành sản xuất, phân phối điện nước.

4- Các ngành dịch vụ có bước phát triển khá rõ nét, sản phẩm và chất lượng dịch vụ được nâng lên

Đã quan tâm đầu tư khá đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật hỗ trợ cho các ngành dịch vụ phát triển như hệ thống đường giao thông, chợ, cửa hàng, siêu thị...; thành lập Trung tâm Xúc tiến thương mại của tỉnh, xây dựng sàn giao dịch điện tử, hỗ trợ xây dựng chỉ dẫn địa lý, xuất xứ, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa một số sản phẩm có lợi thế, từ đó thị trường tiêu thụ được mở rộng, giá trị hàng hóa được nâng lên, một số sản phẩm đã tạo được chỗ đứng uy tín trên thị trường như: chè vùng cao, bột đá, đá hạt, tinh bột sắn, ván ghép thanh, sản phẩm từ cây quế...

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng nhanh, bình quân 5 năm 2011 - 2015 tăng 16,1%/năm. Giá trị xuất khẩu bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 14,21%. Du lịch được quan tâm chỉ đạo, bước đầu đã có một số địa điểm du lịch và tổ chức được một số sự kiện văn hóa tạo sự quan tâm và thu hút du khách như: Khám phá danh thắng quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải gắn với Không gian văn hóa Mường Lò của Thị xã Nghĩa Lộ; Lễ hội Đền Đông Cuông, Đại Kại, màn đại xòe xác lập kỷ lục Việt Nam... Do đó, lượng khách du lịch đến tỉnh hằng năm đều tăng, bình quân giai đoạn 2011-2015 tăng 4,1%.

5- Đã thực hiện hiệu quả các giải pháp huy động được khá lớn nguồn lực đầu tư cho phát triển

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về cắt giảm đầu tư công, tỉnh đã rà soát, điều chỉnh danh mục các dự án, công trình trọng điểm, thực hiện bố trí vốn theo hướng đầu tư tập trung cho một số công trình thiết yếu nhằm phát huy ngay hiệu quả sau đầu tư, đồng thời thanh toán dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản trong toàn tỉnh. Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hợp pháp khác như: WB, ODA, NGO... đồng thời thực hiện phân cấp, thay đổi phương thức đầu tư, khuyến khích, thu hút đầu tư các công trình công cộng, nhờ đó đảm bảo được nguồn lực đầu tư cho các dự án then chốt, quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: Đường tránh ngập thành phố Yên Bái nối thành phố Yên Bái với đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, hệ thống đường giao thông nông thôn toàn tỉnh, Bệnh viện Đa khoa 500 giường, Đường Hoàng Thi, Trường Cao đẳng Nghề Yên Bái, Trường chuyên Nguyễn Tất Thành, hệ thống các trường dân tộc bán trú ...

Tổng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2011-2015 đạt 41.439 tỷ đồng (vượt 21,6% so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội XVII); vốn ngân sách nhà nước trong cơ cấu vốn đầu tư đã giảm đáng kể, từ 41,69% năm 2011 xuống còn 37,88% năm 2015; vốn của dân cư và các thành phần kinh tế tăng từ 38,8% năm 2011 lên 58,82% năm 2015. Sau 5 năm đã đưa vào sử dụng 2.219 công trình, dự án; đã giãn, hoãn 38 dự án; đưa ra khỏi danh mục 07 công trình trọng điểm. Đặc biệt Đề án phát triển giao thông nông thôn đã thực sự đi vào cuộc sống, thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, toàn tỉnh đã huy động trên 600 tỷ đồng, triển khai làm được 429 km đường bê tông, mở mới và mở rộng trên 825 km đường đất. Chương trình nông thôn mới được tập trung chỉ đạo toàn diện, nguồn vốn đầu tư trong 4 năm đạt trên 4.700 tỷ đồng, chủ yếu thông qua việc lồng ghép các chương trình, dự án đang triển khai trên địa bàn tỉnh. Cùng với sự đóng góp của nhân dân, đến nay đã có 05 xã đạt 19 tiêu chí nông thôn mới (Báo Đáp, Tuy Lộc, Việt Thành, Mông Sơn, Tân Đồng), 90 xã đạt từ 5 tiêu chí trở lên, trong đó có 25 xã đạt từ 10 tiêu chí trở lên.

6- Hoạt động tài chính ngân sách và tín dụng đạt kết quả quan trọng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho sản xuất và đời sống
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước; tăng cường công tác quản lý, khai thác nguồn thu; triển khai quyết liệt các biện pháp chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá, trốn thuế, đồng thời phân cấp mạnh về thẩm quyền thu cho cấp huyện. Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều vượt dự toán, cơ cấu nguồn thu được mở rộng và có chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng thu từ khu vực sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2015 tăng 10,7% so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt 16,1%. Điều hành quản lý chi ngân sách theo đúng dự toán, đúng chế độ của nhà nước và địa phương, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ và kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết.

Thực hiện chi ngân sách theo hướng ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển sau khi đảm bảo các khoản chi cho con người và an sinh xã hội. Tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển từ các nguồn vốn tăng từ 30,7% năm 2011 lên 31,8% năm 2015. Hoạt động của các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân được mở rộng; chất lượng hoạt động từng bước được nâng lên, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng và quỹ tín dụng nhân dân năm 2015 tăng gấp 1,89 lần (12.150 tỷ đồng) so với năm 2010, dư nợ cho vay gấp 1,74 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân đạt 13,41%/năm. Các chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách xã hội được triển khai thực hiện đạt hiệu quả đề ra.

7- Các loại hình doanh nghiệp tiếp tục phát triển, tăng cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả hoạt động

Tỉnh đã có chủ trương hỗ trợ, khuyến khích hình thành một số doanh nghiệp có sức cạnh tranh nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Đồng thời chú trọng các biện pháp hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn; hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực quản trị, phát triển nguồn nhân lực. Phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác, đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ đào tạo, xúc tiến thương mại, tín dụng để phát triển hợp tác xã... Kinh tế tập thể cùng với các doanh nghiệp đã dần khẳng định được vai trò, vị trí trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, hằng năm đóng góp trên 50% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động của địa phương, góp phần vào thực hiện các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội.

Trong 5 năm đã cổ phần hoá 06 doanh nghiệp nhà nước; rà soát, đánh giá, sắp xếp để chuyển đổi các lâm trường đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả; có gần 700 doanh nghiệp được thành lập mới, đưa tổng số doanh nghiệp toàn tỉnh lên 1.832 doanh nghiệp, tăng 68% so với năm 2010; đến nay đã phát triển được trên 330 hợp tác xã và trên 2.500 tổ hợp tác, thu hút trên 60.000 lao động, doanh thu gấp 2 lần so với đầu nhiệm kỳ

8- Liên kết phát triển kinh tế vùng đã đạt được những kết quả bước đầu

Một số sản phẩm, nguyên liệu của tỉnh đã được các tỉnh trong khu vực tiêu thụ khá ổn định như: xi măng, bột đá, tinh quặng sắt, gỗ rừng trồng. Để tiếp tục phát triển kinh tế vùng, tỉnh đã đầu tư phát triển một số tuyến giao thông kết nối với đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, quy hoạch đầu tư khu, cụm thương mại, dịch vụ gắn với các điểm giao cắt đường cao tốc, thu hút đầu tư Dự án Tổ hợp sân golf Ngôi sao Yên Bái, khi hoàn thành sẽ là điểm đến hấp dẫn trong khu vực. Trong tỉnh các vùng sản xuất hàng hóa liên huyện được quan tâm chỉ đạo phát triển như: vùng chè, sản phẩm từ quế, sắn... đã tạo ra lượng nguyên liệu cho phát triển sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm sản.

9- Kinh tế - xã hội vùng cao có bước phát triển mạnh, dần đi vào thực chất

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng tỉnh đã dành đáng kể nguồn lực đầu tư phát triển cho vùng cao. Trong 05 năm đã tập trung xây dựng cơ chế, chính sách, các đề án cụ thể, đồng bộ để phát triển kinh tế - xã hội vùng cao. Trọng tâm là việc quy hoạch, bố trí đủ đất sản xuất nông, lâm nghiệp cho từng hộ; hỗ trợ trâu, bò, tạo tư liệu sản xuất cơ bản cho người dân; chuyển đổi diện tích lúa nương sang sản xuất 02 vụ ngô, phát triển chăn nuôi đại gia súc bằng phương pháp bán chăn thả, chỉ đạo trồng cây sơn tra dưới tán rừng phòng hộ. Đến nay các đề án này đã phát huy hiệu quả rõ nét, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa khá lớn, tạo bước chuyển căn bản trong phương thức sản xuất của người dân vùng cao.

Cùng với chỉ đạo phát triển kinh tế, tỉnh đã ưu tiên đầu tư cho phát triển xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bằng việc lồng ghép các nguồn vốn đã tập trung phát triển hệ thống giao thông, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, lưới điện, thông tin liên lạc, hạ tầng văn hoá - xã hội, đặc biệt là hệ thống các trường bán trú, trạm y tế xã, nhờ đó chất lượng y tế, giáo dục vùng cao chuyển biến rõ rệt. Từ năm 2012 đã tổ chức vận động đồng bào dân tộc Mông trong toàn tỉnh tổ chức chung một tết vào Tết Nguyên đán đạt kết quả và đi vào nền nếp; một số thủ tục, nghi thức lạc hậu trong việc cưới, việc tang, lễ hội... không còn phù hợp với cuộc sống văn minh đã từng bước được xóa bỏ. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hệ thống chính trị cấp cơ sở được tăng cường đã tạo nên một bước chuyển ban đầu khá căn bản ở vùng cao.

10- Hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên và môi trường từng bước được nâng cao, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; nguồn lực tài nguyên được khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng bền vững

Tập trung chỉ đạo ban hành quy hoạch sử dụng đất, hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu theo Nghị quyết của Quốc hội. Triển khai thực hiện có hiệu quả các luật và văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ về quản lý tài nguyên, khoáng sản. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh đã chủ động rà soát, điều chỉnh quy hoạch khai thác và chế biến khoáng sản, chấn chỉnh có hiệu quả công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, gắn với trách nhiệm quản lý đất đai ngay từ cơ sở; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu nhằm sử dụng có hiệu quả tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường, đặc biệt đã chỉ đạo quyết liệt việc khắc phục ô nhiễm môi trường trong khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản, chế biến vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản. Chủ động làm tốt công tác phòng chống thiên tai gắn với thực hiện chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu.

II- VĂN HOÁ, XÃ HỘI ĐẠT KẾT QUẢ QUAN TRỌNG

1- Sự nghiệp giáo dục tiếp tục được quan tâm, đạt được những kết quả quan trọng, là cơ sở để triển khai việc đổi mới căn bản, toàn diện sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong giai đoạn tiếp theo

Tăng cường chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quản lý giáo dục, có giải pháp giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu biên chế ở các cơ sở giáo dục, đồng thời đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập. Hệ thống giáo dục đào tạo tiếp tục được củng cố và hoàn thiện, mạng lưới trường lớp các ngành học, bậc học tiếp tục được quy hoạch phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục trên từng địa bàn, đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập của nhân dân, từng bước xây dựng xã hội học tập. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở và chuẩn quốc gia về giáo dục tiểu học được duy trì, đến nay toàn tỉnh có 180 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 178/180 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Cơ sở vật chất trường lớp học từng bước được đầu tư, chuẩn hoá, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 69%. Chất lượng giáo dục được nâng lên, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở nhà trẻ, tỷ lệ học sinh hoàn thành khoá học tăng 9,2% so với năm 2010, chất lượng giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục mũi nhọn được nâng lên.

Trong nhiệm kỳ, tỉnh đã đặc biệt quan tâm đầu tư cho phát triển sự nghiệp giáo dục ở vùng cao bằng việc đầu tư xây dựng hệ thống trường nội trú, bán trú dân nuôi, hỗ trợ gạo cho học sinh, bố trí cơ bản đội ngũ giáo viên, nhân viên, nhờ đó chất lượng giáo dục vùng cao có sự chuyển biến rõ rệt. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, đã huy động được trên 95 tỷ đồng từ các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục.

2- Các hoạt động khoa học công nghệ được mở rộng đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Trong 5 năm đã triển khai thực hiện trên 160 đề tài, dự án khoa học trên các lĩnh vực; hằng năm tỉnh đều giành một phần ngân sách xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ mới trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp; một số đề tài, dự án, mô hình đã được ứng dụng có hiệu quả. Hoạt động chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật được đẩy mạnh. Việc sử dụng giống mới, công nghệ sinh học trong sản xuất nông lâm nghiệp được tăng cường; việc nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ khám chữa bệnh và nâng cao sức khỏe ban đầu cho nhân dân theo hướng kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền được áp dụng khá hiệu quả. Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trong sản xuất kinh doanh đã được các doanh nghiệp quan tâm, nhất là lĩnh vực chế biến khoáng sản, nông lâm sản.

3- Chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh được nâng lên; công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc trẻ em đạt kết quả tích cực

Trong nhiệm kỳ đã triển khai thực hiện thực hiện có hiệu quả Đề án “Phát triển nguồn nhân lực Y tế trên địa bàn tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011 - 2015”, được đánh giá là tỉnh có cơ chế mạnh trong thu hút, đào tạo nguồn nhân lực y tế; đến năm 2015 bình quân có gần 8 bác sỹ và 0,8 dược sỹ đại học trên một vạn dân. Các cơ sở khám chữa bệnh được quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất và trang thiết bị; tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế là 30%. Dự án đầu tư xây dựng bệnh viện đa khoa 500 giường với trang thiết bị hiện đại sắp hoàn thành sẽ tăng thêm điều kiện đáng kể trong việc khám, chữa bệnh cho nhân dân. Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh, công tác giám sát và phòng chống dịch bệnh đã được triển khai hiệu quả, các dịch bệnh nguy hiểm đã được phát hiện sớm, khống chế kịp thời.

Chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh được nâng lên, đã triển khai được 22 kỹ thuật vượt tuyến. Hằng năm tiến hành tổ chức triển khai các đợt chiến dịch truyền thông, lồng ghép với cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến vùng tập trung đông dân cư, vùng có mức sinh cao và vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Chỉ đạo, triển khai thực hiện các mô hình nâng cao chất lượng dân số, tỷ lệ giảm sinh hàng năm đạt 0,3‰. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tỷ lệ trẻ em 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 19%, giảm 3% so với năm 2010.

4- Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin, truyền thông từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được duy trì và có bước phát triển, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên

Trong lĩnh vực văn hóa, tỉnh đã huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng và bảo tồn các thiết chế văn hoá như: các công trình văn hoá, các khu di tích lịch sử, nhà văn hoá, thư viện... Công tác bảo tồn, bảo tàng luôn được quan tâm, các giá trị văn hoá đặc sắc được nghiên cứu và bảo tồn, đã sưu tầm, đưa vào lưu giữ và phát huy được 80 lễ hội truyền thống, 47 phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá dân gian. Chất lượng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, các hội thi, hội diễn, hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp ngày càng đổi mới cả về nội dung và chất lượng nghệ thuật. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được nhân dân hưởng ứng tích cực, các phong tục tập quán tốt đẹp được các làng bản đưa vào hương ước để tổ chức thực hiện, đề cao giá trị đạo đức, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.

Công tác xây dựng gia đình, làng bản, cơ quan, đơn vị văn hoá được nâng cao về chất lượng, năm 2015 duy trì 48% làng bản, tổ dân phố, 72% hộ gia đình, 77% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hoá. Đã phê duyệt và triển khai thực hiện Đề án xây dựng Thị xã văn hóa - du lịch Nghĩa Lộ giai đoạn 2013 - 2020, đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Hoạt động thể dục thể thao được quan tâm đầu tư khá toàn diện từ cơ sở vật chất đến chế độ, chính sách cho thể thao thành tích cao. Trung bình mỗi năm đạt được 55 - 60 huy chương các loại tại các giải đấu toàn quốc và quốc tế; có từ 13 - 15 vận động viên cấp kiện tướng, 35 - 40 vận động viên cấp I quốc gia, 6 đội thể thao hạng A toàn quốc; hằng năm đóng góp cho đội tuyển quốc gia từ 8 - 10 vận động viên thi đấu tại các kỳ SEAGAMES và các giải đấu quốc tế. Liên tiếp trong 3 kỳ Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc gần đây, thể thao Yên Bái luôn ở vị trí tốp dẫn đầu các tỉnh miền núi phía Bắc.

Phong trào toàn dân tham gia luyện tập thể dục thể thao khá sôi động ở tất cả các lứa tuổi, các vùng miền trong toàn tỉnh. Báo chí, phát thanh truyền hình đã và đang phát triển theo hướng truyền thông đa phương tiện, luôn bám sát, thực hiện rõ chức năng tuyên truyền, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Mạng lưới viễn thông có độ phủ khá tốt, chất lượng cao, công nghệ hiện đại, có khả năng nâng cấp để đáp ứng các dịch vụ mới. Năm 2015 đạt 21,8 thuê bao/100 dân, tỷ lệ xã có Internet đạt 100%.

Các loại hình dịch vụ phong phú với chất lượng thông tin và giá cước dịch vụ hợp lý phù hợp cho các đối tượng sử dụng. Công nghệ thông tin được đổi mới và phát triển mạnh đáp ứng công tác chỉ đạo của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội. Đã triển khai thực hiện có hiệu quả đề án về phát triển phát thanh - truyền hình tỉnh Yên Bái, các chỉ tiêu phát triển về phát thanh truyền hình trong những năm qua đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Năm 2014, tỉnh ta đã thực hiện thành công việc phát sóng Kênh truyền hình tỉnh qua vệ tinh Vinasat-1. Tỷ lệ hộ được xem đài Truyền hình Việt Nam, nghe đài Tiếng nói Việt Nam năm 2015 đạt 95%.

5- Giải quyết việc làm, giảm nghèo và an sinh xã hội đạt kết quả tích cực

Trong 05 năm đã giải quyết việc làm cho 90.000 lao động, thực hiện đào tạo nghề cho 44.360 lượt người, tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2015 là 45%.  Công tác giảm nghèo được chỉ đạo quyết liệt, huy động nhiều nguồn lực, tiến hành lồng ghép các chương trình, dự án thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm, bình quân giai đoạn 2011-2015 giảm 4%/năm, đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt. Chính sách cho người có công, chính sách an sinh xã hội đạt được nhiều kết quả tích cực. Đã xây mới và hỗ trợ được 1.256 nhà cho gia đình người có công khó khăn về nhà ở; mua và cấp 1.803.584 lượt thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho các đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, người cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn.

6- Công tác dân tộc, tôn giáo được triển khai thực hiện có hiệu quả

Nhận thức về công tác dân tộc, tôn giáo của cán bộ, đảng viên, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị có sự chuyển biến tích cực; chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo được nâng cao; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy được chú trọng hơn; thái độ và trách nhiệm giải quyết công việc của cán bộ, công chức làm công tác dân tộc, tôn giáo được nâng lên; tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp tỉnh, cấp huyện được kiện toàn. Vai trò các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng, góp phần triển khai thực hiện tốt các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng khó khăn. Đồng bào theo tôn giáo chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương, sống tốt đời, đẹp đạo.

III- QUỐC PHÒNG - AN NINH ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ, CÔNG TÁC NỘI CHÍNH ĐƯỢC QUAN TÂM CHỈ ĐẠO

Quốc phòng - an ninh được tập trung lãnh đạo toàn diện, công tác phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng - an ninh được thực hiện nghiêm túc; đồng thời đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh được kết hợp khá chặt chẽ. Các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, sở chỉ huy; khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, xã, phường, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, từng bước được đầu tư đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Công tác giáo dục, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu được đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp tập huấn, huấn luyện cho các đối tượng; chú trọng nâng cao chất lượng huấn luyện cho lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, hằng năm tổ chức diễn tập, luyện tập ở các cấp đều đạt kết quả tốt. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả; từng bước củng cố và nâng cao chất lượng phong trào ở các địa bàn trọng điểm về an ninh, trật tự, vùng tập trung tín đồ tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số, các khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh.

Cải cách tư pháp được quan tâm chỉ đạo; năng lực, trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp được nâng lên. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đạt kết quả tích cực; toà án nhân dân hai cấp đã tổ chức nhiều phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp; công tác thi hành án hình sự, dân sự, được quan tâm thực hiện…đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Cấp uỷ, chính quyền các cấp tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm; tập trung vào những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Lấy phòng ngừa là chính đi đôi với xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh; thường xuyên quan tâm giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết cơ bản các vụ việc tồn đọng kéo dài; tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

IV- HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ ĐỔI MỚI

Đoàn đại biểu Quốc hội đã phát huy được vai trò trong các hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; nâng cao chất lượng tham gia ý kiến vào các dự án luật, các nghị quyết của Quốc hội; đã kịp thời xử lý, phản ánh các kiến nghị của cử tri đến Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương. Hội đồng nhân dân các cấp đã từng bước đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao vai trò, trách nhiệm và chất lượng tổ chức các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp, trong quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương về phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động giám sát, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân; đôn đốc, theo dõi, xử lý tốt các kiến nghị sau giám sát và các ý kiến của cử tri. Lãnh đạo thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.

Ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo điều hành; hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực được nâng lên. Chỉ đạo rà soát và xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức, của từng cấp chính quyền để sắp xếp, xây dựng hệ thống chính quyền và các cơ quan chuyên môn các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm công khai, dân chủ và phục vụ tốt nhân dân. Yên Bái là tỉnh triển khai thực hiện cải cách công vụ, công chức trước 01 năm so với Quyết định số 1557/QĐ-TTg, ngày 18/10/2010 của Chính phủ phê duyệt Đề án "Cải cách chế độ công vụ, công chức". Thực hiện phân cấp mạnh và hợp lý cho địa phương đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, thực hiện khá tốt quy chế “một cửa" và "một cửa liên thông". Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục phát huy vai trò, chức năng của mình, đã có nhiều cố gắng trong công tác tập hợp, đoàn kết, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Trong hoạt động luôn đảm bảo sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự phối hợp đồng bộ của các cấp chính quyền, các tổ chức thành viên. Thực hiện tốt vai trò, chức năng trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh. Đồng thời thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp và chính đáng của đoàn viên, hội viên, nhân dân; tổ chức nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào thi đua yêu nước, trong đó các cuộc vận động do Mặt trận và các đoàn thể chủ trì mang lại hiệu quả thiết thực, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; “Ngày vì người nghèo”, "Giỏi việc nước, đảm việc nhà", “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, "Phong trào thanh niên tình nguyện"...

V- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG ĐẠT KẾT QUẢ QUAN TRỌNG

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh đã quan tâm chỉ đạo cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XVII bằng các đề án, nghị quyết, chương trình trên tất cả các lĩnh vực và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao; chú trọng xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát gắn chặt chẽ với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng bộ tỉnh đạt được kết quả khá toàn diện, việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc tổ chức học tập, quán triệt, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện và sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị có nhiều tiến bộ. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ, nắm bắt dư luận xã hội và các lĩnh vực công tác khoa giáo, lịch sử Đảng được chú trọng; chủ động nắm bắt, làm tốt công tác tư tưởng, không để xảy ra các vụ việc phức tạp ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và sự đồng thuận xã hội. Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị được các cấp uỷ quán triệt thực hiện nghiêm túc theo các quy định của Trung ương, góp phần nâng cao phẩm chất năng lực của cán bộ, đảng viên, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng đạt kết quả khá toàn diện, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên. Tổ chức cơ sở đảng được xây dựng, củng cố, phát huy vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở; nhiều cơ sở đảng yếu kém và yếu kém từng mặt đã vươn lên đạt trong sạch vững mạnh. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được thực hiện nghiêm túc, kết quả đánh giá thực chất hơn, bình quân hàng năm tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh đạt 80,02%, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 87,63%. Công tác phát triển đảng viên đạt kết quả tốt, chất lượng được nâng lên, tỷ lệ đảng viên có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và tỷ lệ kết nạp đảng viên là đoàn viên thanh niên đều tăng; trong nhiệm kỳ toàn Đảng bộ kết nạp được 10.704 đảng viên, tăng 18,93% so với chỉ tiêu Đại hội đề ra.

Công tác cán bộ có chuyển biến tích cực, tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước từng bước được sắp xếp theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động; đã tập trung đào đạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là quan tâm đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; thực hiện tốt các khâu trong công tác quy hoạch, luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ đảm bảo sự kế thừa và phát triển giữa các thế hệ cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tăng cường, chủ động nắm tình hình liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phục vụ cho công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện tốt chế độ chính sách đối với cán bộ, đảm bảo đúng chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước và phù hợp với điều kiện của địa phương.

Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng được tăng cường. Các cấp uỷ đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; giám sát được mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; kịp thời giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm, bức xúc dư luận xã hội quan tâm, đơn thư tố cáo đối với đảng viên, tổ chức đảng, đơn thư khiếu nại kỷ luật của đảng viên; việc xử lý kỷ luật đảm bảo nghiêm minh, đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và các quy định của Đảng.

Trong nhiệm kỳ, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 2.071 tổ chức đảng, 5.404 đảng viên trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra 146 tổ chức đảng, 414 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giám sát 1.522 tổ chức đảng, 2.765 đảng viên; thi hành kỷ luật 22 tổ chức đảng, 759 đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ đã góp phần tích cực vào việc giáo dục, uốn nắn, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên và phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Công tác dân vận được thường xuyên quan tâm và đạt được kết quả quan trọng.

Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của công tác dân vận có chuyển biến khá rõ nét. Sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh được phát huy, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Chất lượng hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được nâng lên, giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Công tác dân vận chính quyền và lực lượng vũ trang dần đi vào nền nếp. Đã có nhiều hình thức, hoạt động để vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước.

Trong nhiệm kỳ, các cấp ủy, tổ chức đảng đã chú trọng thực hiện các biện pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch công tác. Các quy định về mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, của cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách cấp uỷ, của đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ được triển khai thực hiện có kết quả. Chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy ban hành trong nhiệm kỳ đều phù hợp thực tiễn, đa số chủ trương, nghị quyết sớm được triển khai thực hiện, các vấn đề nảy sinh được chỉ đạo, giải quyết kịp thời. Quy trình xây dựng, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết từng bước đổi mới. Việc thực hiện, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và cùng cấp được quan tâm. Các cấp ủy thực hiện đúng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, đảm bảo nguyên tắc của Đảng đối với chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội; phát huy tính năng động, sáng tạo, hoạt động theo pháp luật, quy định, điều lệ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị. Từng bước đổi mới các khâu trong công tác cán bộ; mở rộng phân cấp quản lý tổ chức và cán bộ. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp uỷ, tổ chức đảng khoa học, sâu sát cơ sở hơn; chế độ hội họp, thông tin báo cáo được cải tiến một bước. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng được đẩy mạnh. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan, tổ chức đảng được quan tâm đầu tư, trang bị.

VI- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 03-CT/TW VÀ NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI

1- Quán triệt sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", trong những năm qua, các cấp uỷ đã nghiêm túc quán triệt, học tập, tổ chức thực hiện Chỉ thị 03- CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và đợt sinh hoạt chính trị “Yên Bái học tập và làm theo lời Bác”; xác định đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Gắn thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW với triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp ... Qua đó đã tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, tinh thần trách nhiệm, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Trong quá trình tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn; chỉ đạo đưa chuyên đề "Học tập tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" vào giảng dạy tại các lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Đồng thời đã lồng ghép nội dung chuyên đề này vào dạy các lớp bồi dưỡng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn. Bên cạnh đó, việc giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đoàn viên, thanh niên, thiếu niên nhi đồng được các tổ chức hội và các cấp bộ đoàn - hội - đội trên địa bàn tỉnh quan tâm triển khai thực hiện thông qua các phong trào hành động của tuổi trẻ tạo không khí thi đua học tập, rèn luyện sôi nổi.

Nhiều tấm gương trong học tập và làm theo lời Bác của đoàn viên, thanh niên, học sinh được cộng đồng ghi nhận. Các cấp ủy đã xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện xuyên suốt toàn khóa và các chuyên đề hàng năm, trong đó chú trọng công tác quán triệt, thảo luận ở các chi, đảng bộ cơ sở để xây dựng kế hoạch và đề ra các giải pháp rà soát, bổ sung các chuẩn mực đạo đức, đăng ký nội dung làm theo Bác bằng những việc làm, phần việc cụ thể phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị và chức trách, nhiệm vụ của từng cá nhân.

Qua đó, cán bộ, đảng viên đăng ký phấn đấu thực hiện, kết hợp với việc kiểm tra, đôn đốc của tổ chức đảng, cơ quan, đoàn thể và sự giám sát của nhân dân. Gắn thực hiện Chỉ thị 03 với triển khai thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 20/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ", Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW, ngày 02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ. Qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, từ đó tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, sinh hoạt của các cấp uỷ, tổ chức đảng được tiến hành nền nếp, bài bản, khoa học hơn; nội dung sinh hoạt có nhiều đổi mới, chú trọng sinh hoạt chuyên đề, coi trọng và mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng, góp phần nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Chỉ thị ở cấp cơ sở, nhất là việc kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Kết quả thực hiện Chỉ thị 03 đã tác động tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, củng cố niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Qua 4 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 1.000 tập thể, cá nhân được tuyên dương, khen thưởng.

2- Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã triển khai thực hiện nghiêm túc, bảo đảm nội dung, yêu cầu đặt ra. Việc triển khai học tập, quán triệt được tổ chức sâu rộng trong toàn Đảng bộ và phổ biến rộng khắp trong nhân dân; gắn tổ chức học tập với xây dựng kế hoạch thực hiện ở tất cả các chi bộ. Việc kiểm điểm diễn ra chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy định. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã đề ra 14 việc, ban thường vụ các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy, các ban cán sự đảng, đảng đoàn trực thuộc Tỉnh ủy đã đề ra 189 việc, cấp cơ sở đã đề ra 4.504 việc cần phải tập trung thực hiện ngay sau kiểm điểm để khắc phục khuyết điểm, yếu kém đã được chỉ ra. Sau kiểm điểm mỗi cấp ủy đã phân công các đồng chí cấp ủy viên, các cơ quan, đơn vị, cá nhân tập trung chỉ đạo giải quyết những việc cần làm ngay. Đến nay cấp tỉnh đã hoàn thành 14/14 việc, cấp huyện đã hoàn thành 170 việc, cấp cơ sở đã hoàn thành 3.127 việc.

Hằng năm mỗi cấp ủy đều tiến hành kiểm điểm nghiêm túc, đồng thời chỉ đạo rà soát, bổ sung các nội dung mới phát sinh để triển khai thực hiện. Công tác giáo dục, chống suy thoái trong tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên được thực sự quan tâm lãnh đạo. Các giải pháp đồng bộ khác về công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng quy chế, quy định, lề lối làm việc trong Đảng và hệ thống chính trị được rà soát, bổ sung phù hợp. Việc nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng được đặc biệt chú trọng. Cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội được rà soát, bổ sung kịp thời, cụ thể, sát thực với điều kiện của tỉnh. Tất cả các giải pháp đó đã tạo được sự chuyển biến bước đầu trong toàn Đảng bộ; cán bộ lãnh đạo các cấp, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước tuyệt đại đa số ý thức sâu sắc được trách nhiệm của mình, tạo chuyển biến trong hành động thực tiễn.

B- NHỮNG HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

I- VỀ KINH TẾ

Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, của các doanh nghiệp trong tỉnh và của nền kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển biến còn chậm, một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu có nguy cơ tụt hậu so với một số tỉnh trong vùng.
Giá trị gia tăng của một số ngành và sản phẩm thấp. Việc nắm bắt thị trường trong nước và quốc tế còn rất hạn chế.

Một số chỉ tiêu đến năm 2015 không đạt mục tiêu đề ra (Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Xây dựng nông thôn mới; Giá trị sản xuất công nghiệp).

Quá trình chuyển dịch sang nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Quy mô của các cơ sở chế biến nông lâm sản còn nhỏ, chưa đồng bộ, công nghệ thấp nên hiệu quả chưa cao. Phát triển sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo bề rộng, sản xuất theo chuỗi giá trị của sản phẩm chưa rõ nét.

Việc thu hút đầu tư còn hạn chế, một số doanh nghiệp được chứng nhận đầu tư những dự án quy mô khá nhưng do nhiều nguyên nhân đã không thực hiện dự án. Cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý cùng với các hạn chế khác nên chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư chiến lược.

Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường còn bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, đất đai, bảo vệ môi trường có mặt còn yếu, nguồn lực tài nguyên chưa được sử dụng hiệu quả.

II- VỀ VĂN HOÁ - XÃ HỘI

Chất lượng giáo dục của các loại hình, giữa các khu vực, vùng miền, địa phương trong tỉnh còn có sự chênh lệch khá rõ rệt. Công tác phổ cập giáo dục ở một số xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn chưa thật sự vững chắc.

Đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học, công nghệ từ ngân sách của địa phương vẫn còn thấp so với yêu cầu thực tế, nhất là đầu tư đổi mới công nghệ của các ngành sản xuất chưa tương xứng và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội tham gia vào công tác xã hội hoá về lĩnh vực văn hóa, thể thao. Lĩnh vực du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, sản phẩm du lịch chưa hấp dẫn, phong phú, các loại hình vui chơi giải trí còn ít; du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp; nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế có xu hướng tăng.

III- VỀ QUỐC PHÒNG - AN NINH

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng có mặt còn hạn chế, nhất là việc xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương trong khu vực phòng thủ; một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật có mặt còn hạn chế. An ninh trật tự còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định như tình trạng xuất, nhập cảnh trái phép, hoạt động tôn giáo trái pháp luật...

IV- VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp còn có những hạn chế nhất định, nhất là cấp cơ sở; một số nghị quyết của Hội đồng nhân dân còn chưa đảm bảo tính khả thi, tính khoa học và thực tiễn; việc giải quyết kiến nghị sau giám sát chưa triệt để, việc theo dõi, đôn đốc giải quyết các kiến nghị sau giám sát chưa được tiến hành thường xuyên.

Cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một bộ phận công chức còn nhũng nhiễu, gây khó khăn trong phục vụ nhân dân và doanh nghiệp; một số chỉ số về năng lực cạnh tranh của cấp tỉnh còn thấp. Công tác phối hợp giữa các ngành, giữa ngành với địa phương và trong nội bộ một số cơ quan, đơn vị có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp.

Nội dung, phương thức vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân chưa có sự đổi mới mạnh mẽ. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể chưa được thể hiện rõ nét, việc góp ý tham gia xây dựng Đảng, chính quyền hiệu quả chưa cao.

V- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG GẮN VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHỈ THỊ 03 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VÀ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 (KHÓA XI)

Nội dung, phương thức thực hiện công tác chính trị, tư tưởng chưa theo kịp những biến đổi nhanh chóng và yêu cầu thực tiễn. Việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở một số tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở vùng cao chưa nghiêm túc. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, quan điểm lệch lạc, sai trái. Triển khai thực hiện việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa bồi dưỡng được nhiều điển hình tiên tiến trong học tập, làm theo tấm gương của Bác Hồ. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống chậm được ngăn chặn, khắc phục đã làm giảm sức chiến đấu của Đảng bộ và lòng tin của nhân dân với cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở vùng cao. Công tác quy hoạch cán bộ ở các cấp, các ngành chưa đồng bộ, chưa mạnh dạn trẻ hoá đội ngũ cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có mặt chưa sát với nhu cầu và thực trạng đội ngũ cán bộ. Công tác nắm tình hình bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là tình hình chính trị hiện nay có lúc, có nơi chưa chủ động, chưa đáp ứng yêu cầu.

Một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; chương trình kiểm tra, giám sát còn dàn trải, còn lúng túng trong thực hiện, nhất là giám sát tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ diện cấp trên quản lý sinh hoạt tại chi bộ. Trong kiểm tra và tự kiểm tra còn có biểu hiện xuê xoa, né tránh, tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng chưa được phát huy mạnh mẽ.
Phương thức lãnh đạo chậm đổi mới trên một số nội dung. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và sự quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở có lúc, có việc chồng chéo; trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ.

C- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

I- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, với sự đoàn kết, thống nhất cao, sự lãnh đạo sát sao của các cấp ủy đảng, sự linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức chỉ đạo thực hiện, sự điều hành quyết liệt của chính quyền các cấp cùng với sự nỗ lực vượt bậc của các thành phần kinh tế và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, chúng ta đã giành được những kết quả quan trọng và khá toàn diện. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch đúng hướng; đã huy động khá nhiều và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội ở những lĩnh vực then chốt. Nhờ đó cơ sở hạ tầng kỹ thuật được cải thiện, năng lực sản xuất tăng lên đáng kể. Văn hóa xã hội có những nét chuyển biến tích cực. Kinh tế - xã hội vùng cao có bước chuyển căn bản. An sinh xã hội được quan tâm đầy đủ, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên. Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI thu được kết quả quan trọng, tạo ra những tiền đề cơ bản để đưa tỉnh ta có bước phát triển nhanh hơn trong giai đoạn tới.

Tuy nhiên, kết quả đạt được trên các lĩnh vực còn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Kinh tế phát triển chưa thật vững chắc; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Chất lượng một số lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, dân số, văn hoá - xã hội còn hạn chế. An ninh, trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu. Đến nay, Yên Bái vẫn còn nằm trong nhóm những tỉnh có trình độ kinh tế - xã hội phát triển thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

II- NGUYÊN NHÂN

1- Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh và các cấp các ngành triển khai, tổ chức thực hiện với nhiều cách làm sáng tạo, cụ thể, hiệu quả. Phát huy được tính chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra giám sát. Các cấp, các ngành đã triển khai, cụ thể hóa bằng các đề án, chính sách để thực hiện khá hiệu quả 3 khâu đột phá mà Nghị quyết XVII Đảng bộ tỉnh đã đề ra với quyết tâm chính trị cao. Từng bước phát huy hiệu quả tiềm năng thế mạnh của tỉnh, kế thừa những thành tựu và nguồn lực đã đạt được trong thời gian qua.

2- Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

Những hạn chế, yếu kém trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân khách quan là những biến động phức tạp của kinh tế, chính trị thế giới, của cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế giới và trong nước, cùng với những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế địa phương đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra. Song nguyên nhân chủ quan và chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là nhận thức, tư duy trên một số lĩnh vực, nhất là tư duy phát triển kinh tế của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Sự lãnh đạo, điều hành, phối hợp trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ có lúc, có việc chưa sát sao, thiếu quyết liệt, trách nhiệm người đứng đầu chưa rõ. Một số chủ trương lớn được xây dựng phù hợp, đúng đắn nhưng việc tổ chức thực hiện thiếu giải pháp hiệu quả; nguồn lực cho đầu tư phát triển không lớn song phải đáp ứng cho nhiều mục tiêu, chương trình thiết yếu nên hiệu quả chưa cao. Một bộ phận cán bộ yếu về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực điều hành, giải quyết công việc cụ thể hiệu quả thấp, bệnh thành tích vẫn xuất hiện khá phổ biến.

III- BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Một là, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, thực hiện nghiêm, kịp thời chính sách của Nhà nước, đồng thời dự báo và nắm bắt nhanh những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp; chỉ đạo quyết liệt, có sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, điều hành để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Hai là, với xu hướng ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, phát triển mạnh mẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế của đất nước và của tỉnh thì việc xây dựng một nền nông nghiệp phát triển toàn diện là một định hướng phát triển hợp lý, bền vững, đảm bảo ổn định đời sống của nhân dân.

Ba là, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội. Trong mọi hoàn cảnh, việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội phải luôn luôn được bảo đảm.

Bốn là, thường xuyên chăm lo củng cố, xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc và tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Kiên quyết phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đổi mới công tác tổ chức, cán bộ; phân công, phân cấp rõ ràng; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời, triệt để những vi phạm. Đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của nhân dân vào xây dựng Đảng. Coi đây là nhiệm vụ then chốt, có vai trò quyết định trong lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra.

Phần thứ hai
MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHIỆM KỲ 2015 - 2020

Dự báo trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, phát triển mạnh mẽ. Nền kinh tế thế giới phục hồi chậm và còn có nhiều biến động khó lường. Tình hình chính trị, an ninh thế giới có chiều hướng diễn biến rất phức tạp; xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai, bạo loạn, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ tiếp tục diễn ra gay gắt. Ở trong nước, thế và lực cùng với sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được khẳng định, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; năm năm tới là thời kỳ nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và của thành viên WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới; kinh tế nước ta từng bước thoát khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại.

Việc triển khai thực hiện các chủ trương của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh vùng Tây Bắc và tiếp tục xây dựng hành lang kinh tế Vân Nam - Hải Phòng và tuyến đường Hà Nội - Lào Cai đã hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển của tỉnh. Trên cơ sở những tiềm năng thế mạnh của tỉnh, kế thừa những thành tựu và nguồn lực đã đạt được trong thời gian qua cùng với xu thế hợp tác, liên kết phát triển giữa các tỉnh trong vùng Tây Bắc sẽ tạo nền tảng cho tỉnh phát triển mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, Yên Bái hội tụ đầy đủ các yếu tố là một tỉnh miền núi, đa dân tộc; hạ tầng kinh tế, xã hội còn thấp kém, kinh tế phát triển chậm; đời sống của nhân ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể diễn biến phức tạp sẽ là những thách thức đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phải có quyết tâm cao, nỗ lực phấn đấu để vượt qua khó khăn và vững bước phát triển.

A- MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

I- MỤC TIÊU TỔNG QUÁT

Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới toàn diện; phát huy truyền thống đoàn kết, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý và bền vững, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế địa phương; đẩy mạnh phát triển văn hoá - xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tăng cường củng cố, xây dựng quốc phòng - an ninh vững mạnh, xây dựng Yên Bái phát triển toàn diện, bền vững, trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Tây Bắc.

II- CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân thời kỳ 2016 - 2020 (giá so sánh 2010) là 7%.
2. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2020: Nông, lâm nghiệp, thủy sản 18,6%; Công nghiệp - Xây dựng 32,8%; Dịch vụ 48,6%.
3. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người năm 2020 (giá thực tế) là 42 triệu đồng.
4. Số xã được công nhận tiêu chí nông thôn mới năm 2020 là 15 - 18 xã.
5. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn năm 2020 (giá so sánh 2010) là 13.000 tỷ đồng.
6. Tổng mức bán lẻ hàng hóa trên địa bàn năm 2020 là 19.000 tỷ đồng.
7. Giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2020 là 200 triệu USD.
8. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2020 là 3.000 tỷ đồng.
9. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 5 năm 2016 - 2020 đạt 60.000 tỷ đồng.
10. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2020 là 55%.
11. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm (theo tiêu chí mới) là 3,5%.
12. Tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp học năm 2020: Duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; Tiểu học 96%; Trung học cơ sở 94%; Trung học phổ thông 93%.
13. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2020 là 10,4%0.
14. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2020 là 70%.
15. Tỷ lệ làng, bản, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa năm 2020 là 55%.
16. Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh năm 2020 là 90%.
17. Tỷ lệ dân số thành thị được cung cấp nước sạch năm 2020 là 80%.
18. Tỷ lệ hộ dân cư nông thôn dùng nhà tiêu hợp vệ sinh năm 2020 là 70%.
19. Tỷ lệ che phủ của rừng năm 2020 giữ ổn định 63%.
20. Số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh hằng năm 80%.
21. Hằng năm kết nạp trên 1.800 đảng viên; tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ 80% trở lên; vận động được trên 75% quần chúng vào các tổ chức đoàn thể.

B- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

I- VỀ KINH TẾ

1- Tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế vùng theo hướng chuyên sâu, chủ động xây dựng và trao đổi chương trình liên kết phát triển kinh tế vùng có tầm chiến lược dài hạn với các tỉnh trong vùng nhằm khai thác và phát huy những lợi thế so sánh của tỉnh về vị trí địa lý, giao thông, nguồn nhân lực, đất đai, tài nguyên, khoáng sản ... Tích cực tham gia hội nhập và liên kết sâu với các tỉnh trong vùng nhằm đáp ứng yêu cầu hợp tác, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong việc khai thác các tiềm năng, thế mạnh cùng nhau phát triển nhanh, bền vững với tầm nhìn đến năm 2030.

Tập trung phát triển những ngành hàng, sản phẩm có lợi thế so sánh, trọng tâm là phát triển các vùng cây công nghiệp, nguyên liệu giấy và gỗ chế biến công nghiệp, nguyên liệu sinh học, bột giấy, ván ép, xi măng, các sản phẩm từ đá trắng, công nghiệp phụ trợ... để hợp lực thúc đẩy các tỉnh trong vùng phát triển. Ngược lại, tỉnh Yên Bái tiếp nhận một phần nguyên liệu và thị trường từ các tỉnh trong vùng để tập trung phát triển công nghiệp xi măng, khai thác, chế biến quặng sắt, sản xuất gang thép, các sản phẩm từ đá... Phát triển vận tải hàng hóa qua ga đường sắt, cảng sông tại xã Văn Phú (thành phố Yên Bái) đi các tỉnh trong vùng. Liên kết với các tỉnh trong vùng để phát triển các khu, điểm du lịch lớn, trọng tâm là khu vực hồ Vân Hội (huyện Trấn Yên).

2- Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện, bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới trên cơ sở khai thác, tận dụng tối đa lợi thế của từng vùng, từng địa phương

Triển khai đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp một cách đồng bộ, chú trọng vào tái cơ cấu nội ngành giữa các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp; cơ cấu lại nguồn lực đầu tư cho nông, lâm nghiệp; cơ cấu lại hệ thống tổ chức quản lý và các tổ chức sự nghiệp trong ngành nhằm mục tiêu chuyển dịch mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng hàng hóa, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích. Đầu tư phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hoá, chuyển từ phát triển bề rộng sang phát triển chiều sâu.

Duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, mục tiêu tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2016 - 2020 là 3,6%; cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản; đảm bảo an ninh lương thực, góp phần giảm nghèo, ổn định chính trị - xã hội, đến năm 2020 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 280.000 tấn. Đẩy mạnh chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong các khâu giống, canh tác, chế biến, bảo quản sau thu hoạch; đẩy nhanh cơ giới hóa trong sản xuất, chế biến, phát triển các sản phẩm nông, lâm sản thân thiện với môi trường và thị trường. Xây dựng vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao với diện tích khoảng 2.500 ha tại cánh đồng Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn), Đại Phú An - Đông Cuông (huyện Văn Yên), Mường Lai - Vĩnh Lạc (huyện Lục Yên) và vùng sản xuất lúa đặc sản nếp Tú Lệ (huyện Văn Chấn).

Xây dựng vùng cây ăn quả đặc sản, trồng thay thế và phát triển mở rộng diện tích cây ăn quả có thế mạnh của tỉnh theo quy hoạch, trọng tâm là vùng cây ăn quả đặc sản có múi, có cùi với quy mô khoảng 450 ha như: Vùng bưởi Khả Lĩnh tại 02 xã Đại Minh và Hán Đà, huyện Yên Bình; vùng cam, quýt tại 02 huyện Văn Chấn và Lục Yên; vùng nhãn ở phía Tây huyện Văn Chấn và phía Tây huyện Văn Yên. Xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, tiếp tục đầu tư trồng thay thế chè già cỗi bằng các giống mới có năng suất, chất lượng cao theo định hướng phát triển của tỉnh. Phát triển vùng sản xuất chè đen, chè xanh chuyên canh tập trung với quy mô diện tích trên 4.000 ha tại các huyện Văn Chấn, Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên; mở rộng vùng chè Shan tuyết quy mô 400 ha tại khu vực Suối Giàng, huyện Văn Chấn.

Tiếp tục phát triển đàn đại gia súc theo hướng bán chăn thả; phát triển đàn lợn và gia cầm theo hướng chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, trang trại tập trung, quy mô phù hợp ngoài khu dân cư gắn với cơ sở giết mổ, chế biến, đảm bảo an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường, phấn đấu đến năm 2020 sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt 43.500 tấn. Phát triển nuôi trồng thủy sản trên các hồ lớn, xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung với quy mô 500 ha. Ứng dụng công nghệ, áp dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến trong việc nhân giống, chăm sóc để nhân rộng và phổ biến nuôi trồng các loại thủy đặc sản có giá trị cao; thực hiện đa dạng các hình thức nuôi phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Tạo các mối liên doanh, liên kết ổn định, bền vững trong việc chế biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản.

Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Tập trung phát triển kinh doanh rừng sản xuất theo hướng ứng dụng tiến bộ về giống để tăng sản lượng và giá trị nguyên liệu gỗ phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. Duy trì ổn định vùng trồng quế với quy mô 30.000 ha. Phát triển vùng sản xuất tre măng Bát độ tập trung với quy mô trên 5.000 ha tập trung ở huyện Trấn Yên và dọc Quốc lộ 70. Mở rộng vùng sản xuất cây Sơn tra dưới tán rừng phòng hộ theo hướng tập trung, với quy mô khoảng 3.000 ha, tại huyện Mù Cang Chải và huyện Trạm Tấu. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất giống nhằm rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm quả Sơn tra. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng, chuyển đổi diện tích rừng phòng hộ ít xung yếu sang rừng sản xuất, đẩy nhanh tiến độ và thực hiện có hiệu quả Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Phấn đấu mỗi năm trồng rừng tập trung khoảng 15.000 ha làm nguyên liệu chủ yếu phục vụ cho công nghiệp chế biến.

Tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, rà soát, bổ sung gắn quy hoạch nông thôn mới với phát triển đô thị và bố trí hợp lý các điểm dân cư; huy động, lồng ghép các nguồn lực ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, đưa thu nhập người dân nông thôn năm 2020 tăng trên 2,5 lần so với năm 2015.

3- Tiếp tục phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại gắn với bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên, duy trì tốc độ tăng trưởng cao theo hướng sản xuất, chế biến sâu

Rà soát quy hoạch ngành công nghiệp, loại bỏ các dự án trong các lĩnh vực không hiệu quả hoặc kém hiệu quả, bổ sung các lĩnh vực có nhiều lợi thế so sánh, nhất là lợi thế đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Ưu tiên phát triển công nghiệp khai thác, chế biến đá hoa trắng, chế biến quặng sắt, chì kẽm, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, từng bước đi đến chế biến tinh, chế biến sâu để có hiệu quả kinh tế cao. Có giải pháp cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng phép khai thác khoáng sản, đã đầu tư xây dựng cơ sở chế biến sớm đi vào hoạt động. Thu hút và có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến nông lâm sản, như chế biến quế, chế biến sơn tra, chế biến chè chất lượng cao. Vận động các nhà đầu tư chiến lược có năng lực, có công nghệ tiên tiến đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất cần khuyến khích của tỉnh. Tập trung phát triển 3 khu công nghiệp: Khu công nghiệp phía Nam, khu công nghiệp Âu Lâu, khu công nghiệp Minh Quân. Rà soát, bổ sung quy hoạch một đến hai cụm công nghiệp dọc đường cao tốc để mời gọi đầu tư. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp da giầy, may mặc, điện tử... đầu tư tại tỉnh để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động tại chỗ.

4- Phát triển dịch vụ, thương mại

Đẩy mạnh phát triển dịch vụ theo khu vực, tập trung phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế phát triển; nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, vận tải, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, khoa học - công nghệ. Tiếp tục hình thành và phát triển các thị trường tài chính, bất động sản, khoa học - công nghệ, lao động. Đa dạng hoá các loại hình tín dụng, thực hiện tốt việc huy động vốn và cho vay đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế và các chương trình, dự án trọng điểm của tỉnh. Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực cho các dịch vụ phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực văn hoá - xã hội. Hình thành các vùng liên kết công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ nhằm tạo sự tương tác và lan tỏa của dịch vụ tới các ngành kinh tế khác và ngược lại.

Phát huy lợi thế đường cao tốc, phát triển mạnh các dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vui chơi, giải trí, khách sạn nhà hàng như: sân golf, trung tâm mua sắm, du lịch hồ Thác Bà và tuyến du lịch Mường Lò - Nghĩa Lộ - Mù Cang Chải - Suối Giàng, Văn Chấn. Nghiên cứu quy hoạch và thu hút các nhà đầu tư phát triển các loại hình du lịch văn hóa, sinh thái... dọc tuyến đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai; tạo tua du lịch khép kín từ trung tâm thành phố Yên Bái đến Nghĩa Lộ - Mù Cang Chải - Suối Giàng về Ba Khe, xuôi Hà Nội và ngược lại. Tiếp tục đầu tư xây dựng thị xã Nghĩa Lộ trở thành thị xã văn hóa, là trung tâm dịch vụ, thương mại và du lịch khu vực phía Tây của tỉnh. Nâng cao hiệu quả chương trình du lịch liên kết giữa 8 tỉnh. Tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng thương mại hỗ trợ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước nhằm giữ vững ổn định, phát triển nhanh thị trường nội địa và hướng đến thị trường xuất khẩu. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm, tập trung xây dựng thương hiệu sản phẩm, nhất là các sản phẩm có lợi thế như chè, quế, các sản phẩm từ gỗ, đá...; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh, hoạt động xuất khẩu nhằm đưa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh năm 2020 gấp 4 - 5 lần năm 2015.

5- Đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật

Phát huy lợi thế mạng lưới giao thông sẵn có, đặc biệt là đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; tiếp tục nghiên cứu đầu tư xây dựng, nâng cấp một số tuyến đường tỉnh lộ nối các huyện trong tỉnh và đến các huyện của tỉnh giáp ranh, trong đó có tuyến đường ngang Trạm Tấu (Yên Bái) - Bắc Yên (Sơn La), tuyến đường Lục Yên - Văn Yên - Văn Chấn - Mù Cang Chải, đường vành đai III thành phố Yên Bái - Trấn Yên. Nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa đạt cấp kỹ thuật quy định. Đầu tư chiều sâu, nâng cấp và xây dựng mới một số cảng đầu mối, bến cảng hàng hoá và hành khách. Hoàn thành công trình cầu Tuần Quán gắn với mở rộng không gian đô thị thành phố Yên Bái sang hữu ngạn sông Hồng. Tổ chức tốt không gian đô thị, nông thôn và khu chức năng đặc thù; tổ chức hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Phấn đấu đáp ứng các tiêu chí để nâng cấp Thành phố Yên Bái thành đô thị loại II; Thị xã Nghĩa Lộ phấn đấu đáp ứng các tiêu chí phát triển nâng cấp thành đô thị loại III vào năm 2020. Phát triển thêm một đô thị khu vực phía Tây của tỉnh Yên Bái là trung tâm huyện lỵ của huyện mới tách ra từ huyện Văn Chấn để kết nối thị xã Nghĩa Lộ và huyện Mù Cang Chải. Các đô thị còn lại tiến hành đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng kinh tế - xã hội, chỉnh trang đô thị để đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị theo mạng lưới đô thị chung của tỉnh. Đến năm 2020, đảm bảo 80% dân cư thành thị được cung cấp nước sạch; đảm bảo 100% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung; khoảng 95% chất thải rắn tại các đô thị được thu gom và xử lý. Đầu tư xây dựng mở rộng hệ thống điện chiếu sáng đô thị, công viên cây xanh, thoát nước, bến bãi đỗ xe trong đô thị; xây dựng mới, cải tạo nâng cấp các nghĩa trang trong tỉnh.

6- Tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng cao

Lồng ghép các chương trình huy động mọi nguồn lực tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng cao, phấn đấu đến năm 2020 có 30% số thôn bản có đường giao thông đi lại thuận lợi; hoàn thiện cơ bản hệ thống trường học, trạm y tế; mở rộng lưới điện quốc gia đến các thôn bản, cơ bản hoàn thành việc xây dựng hệ thống công trình thủy lợi. Giữ vững kết quả phát triển sản xuất nông lâm nghiệp; chuyển hẳn diện tích sản xuất lúa nương sang sản xuất ngô đồi hai vụ; triển khai mạnh chương trình phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng bán chăn thả, phát triển đàn lợn, đàn gia cầm hợp lý theo hướng sản xuất hàng hóa ở những nơi có điều kiện. Tập trung trồng cây Sơn tra, cây vối thuốc, cây dược liệu dưới tán rừng phòng hộ ở hai huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải; phát triển chè vùng cao với trung tâm chính là Phình Hồ, Trạm Tấu và Púng Luông, Mù Cang Chải. Cơ bản hoàn thành việc giao đất, giao rừng sản xuất, đảm bảo diện tích đất sản xuất lương thực cho người dân vùng cao.

Vận động, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp phù hợp như khai thác, chế biến khoáng sản, chế biến sơn tra, chè vùng cao, dược liệu, phát triển thủy điện theo hướng sử dụng số lượng lớn người lao động địa phương nhằm từng bước tạo thành các điểm dân cư tập trung ở những nơi có điều kiện. Khuyến khích giao lưu thương mại, dịch vụ; nghiên cứu đầu tư chợ buôn bán gia súc tại hai huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải; hình thành chợ có quy mô phù hợp tại trung tâm các xã. Áp dụng đồng bộ các giải pháp, xây dụng cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe ban đầu; tiếp tục thực hiện các cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa. Duy trì và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho học sinh bán trú, thực sự coi phát triển văn hóa, giáo dục là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội vùng cao. Bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.

7- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường

Làm tốt công tác lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm, đảm bảo ổn định diện tích đất nông nghiệp, quản lý và sử dụng có hiệu quả đất đô thị phục vụ cho mục đích sử dụng đất công cộng và đất ở dân cư. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng, nhằm khai thác hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên về đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước và bảo vệ môi trường, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh một cách bền vững. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản và công nghiệp khai khoáng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để thích ứng một cách chủ động với biến đổi khí hậu; chủ động nâng cao khả năng phòng, tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, sự biến động bất lợi của môi trường.

II- VỀ VĂN HOÁ - XÃ HỘI

1- Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nguồn nhân lực và khoa học công nghệ

1.1- Giáo dục và Đào tạo

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, quản lý của Nhà nước để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong những năm tới có hiệu quả. Nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Phát triển đào tạo nghề theo hướng đa dạng về loại hình, phương thức đào tạo, nghề đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục củng cố mạng lưới trường lớp hiệu quả, hợp lý, đáp ứng nhu cầu học tập; phấn đấu không còn phòng học tạm, cơ bản đảm bảo đủ phòng học cho việc dạy học 2 buổi/ngày ở bậc mầm non và tiểu học. Ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn. Thực hiện hiệu quả công tác phân luồng học sinh, phát triển quy mô gắn với nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Tập trung phát triển trường trung học phổ thông chuyên của tỉnh và các trường phổ thông chất lượng cao ở các địa phương. Tăng cường các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo một cách toàn diện.

1.2- Nguồn nhân lực

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền về phát triển nguồn nhân lực. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực một số ngành, lĩnh vực trọng điểm và nhóm nghề đặc thù: Nhân lực ở nông thôn đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới; cán bộ hệ thống chính trị; đội ngũ giảng viên, giáo viên; lao động kỹ thuật trình độ cao; doanh nhân, cán bộ quản lý; người dân tộc thiểu số và lao động ở vùng đặc biệt khó khăn. Phát triển toàn diện thể chất, tăng cường thể lực nguồn nhân lực. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, sử dụng nguồn nhân lực, cơ chế hoạt động, đánh giá chất lượng; phân cấp tự chủ, tự chịu trách nhiệm; cung ứng dịch vụ của các cơ sở đào tạo. Tăng cường hợp tác phát triển nguồn nhân lực với các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, lao động hoạt động trong các ngành trọng điểm, các nghề mới, sử dụng công nghệ hiện đại,... Đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%; tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức khối hành chính, sự nghiệp có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên là 65% (trong đó tiến sỹ, thạc sỹ là 2%); tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên là 100% (trong đó tỷ lệ có trình độ đại học, cao đẳng là 30% trở lên).

1.3- Khoa học công nghệ

Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng trong hoạt động khoa học, công nghệ nhằm phát huy những tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn tỉnh. Tăng cường năng lực ứng dụng, phát triển công nghệ, làm chủ công nghệ tiên tiến hiện đại của các doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực và cả nền kinh tế trên địa bàn tỉnh. Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thích hợp cho khu vực nông thôn, nhất là công nghệ sinh học, giống mới vào lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, chú trọng các vùng đặc biệt khó khăn nhằm phát huy thế mạnh vùng miền, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Đổi mới công tác quản lý trong thực hiện nhiệm vụ khoa học, nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ theo cơ chế “đặt hàng”, cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Nâng cao vai trò tư vấn của Hội đồng khoa học và công nghệ các cấp, của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh trong việc xây dựng chính sách, cũng như các chủ trương của tỉnh về phát triển khoa học và công nghệ. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, công nhân kỹ thuật; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

2- Nâng cao chất lượng công tác y tế, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc bà mẹ, trẻ em

Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế theo hướng tinh gọn, hiệu quả, nâng cao chất lượng mạng lưới y tế dự phòng; đào tạo cán bộ chuyên khoa sâu gắn với tiếp tục đẩy mạnh thu hút cán bộ y tế có trình độ cao, phấn đấu đến năm 2020 đạt 8,5 bác sĩ/vạn dân và 1,5 dược sỹ đại học/vạn dân; tỷ lệ xã, phường, thị trấn có bác sĩ đạt 80%. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Tuyến tỉnh nâng cấp, tăng quy mô giường bệnh cho các bệnh viện, hạn chế bệnh nhân chuyển tuyến. Đầu tư xây dựng mới một số bệnh viện chuyên khoa, đưa Bệnh viện Đa khoa 500 giường vào hoạt động có hiệu quả, thành lập bệnh viện sản - nhi, bệnh viện mắt. Tăng quy mô giường bệnh tuyến huyện, nâng cấp trang thiết bị bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa khu vực, phòng khám đa khoa khu vực. Số cơ sở điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone đạt 11 cơ sở; tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế đạt 70%. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá, huy động thêm nguồn lực từ các thành phần kinh tế cùng tham gia chăm lo sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng cường hệ thống giám sát dịch bệnh, không để dịch lớn, dịch nguy hiểm xảy ra. Triển khai có hiệu quả chiến lược chăm sóc sức khoẻ sinh sản quốc gia. Bảo đảm cung cấp thuốc và vật tư thiết bị, củng cố phát triển hệ thống dược trong toàn tỉnh, cung ứng thuốc thường xuyên và đầy đủ, sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, nghiên cứu phát triển cây dược liệu tại tỉnh. Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2020 là 10,4%0, nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về dân số và phát triển, nâng cao hiệu quả việc thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình.

3- Phát triển văn hoá, thể thao, thông tin truyền thông, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân

Đẩy mạnh tuyên truyền về đạo đức lối sống, các chuẩn mực giá trị văn hóa trong nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần xây dựng con người Yên Bái phát triển toàn diện. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tạo điều kiện cho các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật trong đó tập trung hướng mạnh về cơ sở đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Thu hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng trong tỉnh. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao; tạo cơ chế, tăng cường đầu tư xây dựng các thiết chế phục vụ cho hoạt động văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở. Đẩy mạnh phong trào "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; phát triển mạnh thể dục thể thao quần chúng; đổi mới hệ thống đào tạo vận động viên trẻ, từng bước chuyên môn hóa thể thao thành tích cao, phấn đấu luôn giữ ở tốp đầu các tỉnh miền núi phía Bắc. Khuyến khích phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo của tỉnh; tăng cường tuyên truyền quảng bá tiềm năng du lịch của tỉnh. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với công tác gia đình.

Phấn đấu năm 2020 có 80% hộ gia đình; 55% thôn, bản, tổ dân phố; 80% cơ quan đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hóa theo tiêu chí mới; 15 - 20% xã, phường đạt chuẩn văn hóa. Tăng cường công tác quản lý, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin hoạt động theo quy định của pháp luật. Tiếp tục nâng cao chất lượng các dịch vụ thông tin truyền thông, mở rộng, đưa thêm các dịch vụ mới vào hoạt động với chất lượng và giá cước hợp lý, phù hợp với các nước trong khu vực.

Đổi mới và phát triển mạnh công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu công tác của các cơ quan Đảng, Nhà nước và yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại. Phát triển gắn với tăng cường quản lý các lĩnh vực phát thanh truyền hình, xuất bản báo chí theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khóa XI. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho phát thanh truyền hình, hệ thống truyền thanh cơ sở giữ vững và nâng cao chất lượng phủ sóng, nâng cao chất lượng sóng phát thanh truyền hình, phát triển truyền hình số mặt đất và các dịch vụ truyền hình. Phấn đấu năm 2020 tỷ lệ hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam đạt 100%; tỷ lệ hộ được xem truyền hình Trung ương đạt 100%. Phát triển báo chí Yên Bái theo hướng cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước để đoàn kết, tập hợp quần chúng, tạo đồng thuận trong xã hội.

4- Chú trọng giải quyết việc làm, giảm nghèo và thực hiện tốt công tác an sinh xã hội

Quan tâm tạo việc làm, nâng cao chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt đối với tất cả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; phát triển và nhân rộng các mô hình tạo việc làm, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề, đặc biệt là các loại hình kinh doanh thu hút nhiều lao động; quy hoạch, đầu tư phát triển các vùng chuyên canh nông, lâm, ngư nghiệp, cây ăn quả, tạo thêm nhiều việc làm. Đầu tư phát triển trung tâm giới thiệu việc làm, phát triển các hoạt động thông tin thị trường lao động; tăng cường các hoạt động giao dịch việc làm trên thị trường. Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, đào tạo lao động chuyên môn cao, đặc biệt là ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu và ý thức chấp hành pháp luật cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đến xã, phường, gia đình người lao động về xuất khẩu lao động; làm tốt công tác tuyển chọn, huấn luyện, tạo nguồn cho xuất khẩu lao động; hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động ở địa phương; hỗ trợ kinh phí học nghề, xử lý rủi ro, tăng mức cho vay tín dụng ưu đãi để lao động vùng nông thôn có điều kiện tham gia xuất khẩu lao động, nhất là đối tượng chính sách. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm 3,5%, trong đó các huyện nghèo giảm 6%/năm (theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2016-2020). Tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện ở cơ sở.

Chú trọng bồi dưỡng kiến thức về sản xuất nhằm nâng cao năng lực xoá đói giảm nghèo cho người dân, nhất là vùng nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về tín dụng, dạy nghề, tạo việc làm, khuyến nông, khuyến ngư, tiêu thụ sản phẩm,...; xây dựng các đề án, mô hình giảm nghèo; tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Có cơ chế, chính sách khuyến khích hộ, xã thoát nghèo; nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tính tự lực của các hộ nghèo để vươn lên thoát nghèo... Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách về phụ cấp, trợ cấp ưu đãi, chăm sóc, hỗ trợ người có công với cách mạng theo quy định. Huy động toàn dân chăm sóc thương binh, thân nhân liệt sĩ và người có công với cách mạng. Thực hiện tốt các chính sách xã hội về trợ giúp những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, yếu thế. Đẩy nhanh tốc độ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; trên 85% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Ngăn chặn và giảm thiểu tiến tới đẩy lùi các tệ nạn xã hội; quản lý chặt các đối tượng nghiện ma túy, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone. Đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng xã, phường, thôn, bản lành mạnh, không có tệ nạn ma túy, mại dâm và phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS.

5- Công tác dân tộc, tôn giáo

Nghiên cứu, ban hành những chính sách đặc thù phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cán bộ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án đầu tư, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với vùng cao. Huy động, lồng ghép mọi nguồn vốn đầu tư phát triển, trong đó ưu tiên tập trung cho xoá đói giảm nghèo bền vững, xây dựng kết cấu hạ tầng. Vận động đồng bào xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong sản xuất và sinh hoạt, tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

III- XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG - AN NINH VỮNG MẠNH; ĐẢM BẢO AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI; NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ PHÁP, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TIẾP DÂN, GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1- Xây dựng quốc phòng an ninh vững mạnh; đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội

Quán triệt sâu sắc “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn dân, đồng thời đổi mới và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; huy động sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, kiềm chế tội phạm và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị. Lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, tình hình thực tiễn của địa phương, không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng - quân sự địa phương. Duy trì nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm khả năng cơ động của các đơn vị, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống kế hoạch tác chiến phòng thủ của tỉnh và các đơn vị sát với yêu cầu nhiệm vụ, tình hình địa phương; tổ chức luyện tập, diễn tập theo các phương án; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh trong khu vực phòng thủ.

Chủ động phối hợp với các lực lượng tăng cường các biện pháp nắm chắc, dự báo, đánh giá chính xác tình hình. Kịp thời tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo phòng chống có hiệu quả âm mưu thủ đoạn "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và giải quyết những vấn đề nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa bàn ngay từ cơ sở, không để diễn biến phức tạp và xảy ra “điểm nóng” về an ninh trật tự. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng. Thực hiện tốt Luật Dân quân tự vệ, Luật Sỹ quan Quân đội, chính sách hậu phương quân đội và chính sách tồn đọng sau chiến tranh... Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phấn đấu đến năm 2020, không có xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị yếu kém trong thực hiện phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc".

2- Nâng cao hiệu quả công tác tư pháp, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, trọng tâm là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử, tăng cường kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Cấp uỷ, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; tập trung vào những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Lấy phòng ngừa là chính đi đôi với xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng. Tăng cường công tác thanh tra; đổi mới việc tiếp công dân; nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; tạo sự chuyển biến cơ bản, tích cực trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các cơ quan tiến hành tố tụng để đẩy mạnh công tác phòng ngừa, kiềm chế vi phạm, tội phạm.

IV- NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC; PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC, CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

1- Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền các cấp, tạo bước chuyển rõ nét về cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp

Tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh trong các hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; nâng cao chất lượng tham gia ý kiến vào các dự án luật, các nghị quyết của Quốc hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và chất lượng tổ chức các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp, trong quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương về phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động giám sát, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân; đôn đốc, theo dõi, xử lý tốt các kiến nghị sau giám sát và các ý kiến của cử tri. Thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội khoá XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp. Tiếp tục rà soát, xây dựng Đề án cải cách công vụ công chức; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức, của từng cấp chính quyền để sắp xếp, xây dựng hệ thống chính quyền và các cơ quan chuyên môn các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm công khai, dân chủ và phục vụ tốt nhân dân. Tiếp tục thực hiện phân cấp mạnh và hợp lý cho địa phương, cơ sở đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, thực hiện tốt quy chế “một cửa" và "một cửa liên thông", ngăn ngừa những tiêu cực, phiền hà đối với người dân và doanh nghiệp, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức các cấp có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đồng bộ, cụ thể và khả thi. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.

2- Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và hội quần chúng theo Kết luận số 62-KL/TW của Ban Bí thư. Củng cố tổ chức, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng và nâng cao chất lượng phong trào, gắn việc triển khai các phong trào, cuộc vận động với việc chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, tăng tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia các hoạt động thường xuyên của tổ chức. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nhất là đối với các đối tượng đặc thù bằng các hình thức linh hoạt. Khắc phục tình trạng hành chính hoá, bệnh hình thức, thành tích. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Nghiêm túc thực hiện quy chế giám sát và phản biện xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

V- TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác chính trị, tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác chính trị, tư tưởng. Tổ chức tốt việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng ở các cấp, các ngành, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội. Bám sát thực tiễn, tăng cường năng lực dự báo, chủ động nắm bắt thông tin, tham mưu, đề xuất xử lý thông tin nhanh nhạy, hiệu quả, định hướng kịp thời dư luận xã hội.

Thực hiện tốt Thông báo kết luận số 225-TB/TW của Ban Bí thư về cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình tuyên truyền; Chỉ thị số 17-CT/TW Ban Bí thư về đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới. Kịp thời cung cấp thông tin chính thống, khách quan, chính xác để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng bản chất các vấn đề, sự việc đang diễn ra trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, nhất là những vấn đề, sự kiện lớn, đột xuất mà dư luận đặc biệt quan tâm hoặc gây tác động lớn trong xã hội. Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 03-KH/TW của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Trong từng giai đoạn cần lựa chọn nội dung, cách làm cụ thể, thiết thực, sát tình hình địa phương, đơn vị. Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, là một nội dung trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt của các đoàn thể. Tiếp tục thực hiện tốt Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng và Chỉ thị số 13-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc đẩy mạnh đào tạo chương trình sơ cấp lý luận chính trị cho đảng viên ở cơ sở.

Tăng cường các giải pháp xây dựng, củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tập trung kiện toàn, sắp xếp mô hình tổ chức đảng phù hợp với từng loại hình cơ sở, bảo đảm tính đồng bộ, hợp lý, phát huy vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của tổ chức đảng. Tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên kết nạp; tăng cường công tác quản lý, rèn luyện, phân công nhiệm vụ đảng viên.

Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ bảo đảm chủ trương trẻ hoá, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng và thực hiện chiến lược cán bộ đến năm 2020. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, bí thư chi bộ, cán bộ trẻ, cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, trong đó chú trọng luân chuyển cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có năng lực và triển vọng phát triển. Thực hiện tốt việc đánh giá, sử dụng cán bộ và chính sách thu hút cán bộ trong đó có đội ngũ chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm trong một số lĩnh vực, ngành nghề. Quan tâm thực hiện tốt công tác chính sách cán bộ. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là việc nắm tình hình chính trị hiện nay phục vụ xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ngăn chặn tình trạng cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật.

Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Quán triệt kịp thời, đầy đủ các nghị quyết, quyết định, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp ủy viên, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát. Tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận quan tâm; giải quyết dứt điểm đơn thư tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên, đơn thư khiếu nại kỷ luật đảng; làm tốt công tác giám sát, chủ động phát hiện và kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát với phương châm: “Giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chỉ đạo, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp dưới. Thường xuyên kiện toàn và nâng cao chất lượng ủy ban kiểm tra các cấp; nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ. Làm tốt công tác tuyên truyền về vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát; bảo vệ người đấu tranh chống tiêu cực phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác vận động quần chúng. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân về công tác dân vận và tầm quan trọng của việc xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Gắn công tác dân vận với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, học tập phương pháp dân vận của Bác Hồ. Không ngừng mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội; lấy tuyên truyền, vận động, thuyết phục là chính, khắc phục lối làm việc quan liêu, mệnh lệnh, hành chính hoá. Lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và các văn bản pháp luật về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Quyết định số 150-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận. Phát huy vai trò của quy ước, hương ước và các quy định mang tính tự quản của cộng đồng dân cư. Nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ, ban chỉ đạo công tác tôn giáo.

Nâng cao chất lượng và đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của tổ chức đảng theo hướng tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đi đôi với mở rộng dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết trong Đảng. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo đối với chính quyền; xác định cụ thể những nội dung mà cấp uỷ, ban thường vụ và tập thể thường trực cấp uỷ cho ý kiến trước khi hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân quyết định. Cấp uỷ lãnh đạo chặt chẽ các cơ quan tư pháp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật; lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể thông qua đảng đoàn và đội ngũ đảng viên trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động của cơ quan, tổ chức đảng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là chế độ họp, thông tin báo cáo trong Đảng. Thường xuyên kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản của Đảng. Thực hiện tốt Đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan đảng. Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho các cơ quan, tổ chức đảng, nhất là cho tổ chức cơ sở đảng.

Lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, xác định đây là một việc làm thường xuyên, liên tục của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên. Coi việc tự phê bình và phê bình là một nét văn hóa trong sinh hoạt đảng, tạo sự chuyển biến rõ nét hơn trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết bằng việc thực hiện đồng bộ 04 nhóm giải pháp, với trọng tâm là tập trung vào việc khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm đã được chỉ ra; phát hiện, bổ sung những vấn đề mới, những yếu kém, khuyết điểm phát sinh và đề ra những nhiệm vụ, giải pháp để kịp thời khắc phục, làm cho tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên, tạo thành động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Một số nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh:

(1) Xây dựng một nền nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa, hiệu quả và bền vững.

(2) Tiếp tục phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại gắn với bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao theo hướng sản xuất, chế biến sâu, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm

(3) Phát huy lợi thế đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thu hút đầu tư để tăng nhanh giá trị các ngành dịch vụ.

(4) Tiếp tục tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo nền tảng cho cho phát triển kinh tế - xã hội.

(5) Phát triển kinh tế - xã hội vùng cao (huyện Trạm Tấu, huyện Mù Cang Chải và huyện mới tách ra từ huyện Văn Chấn).

(6) Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển kinh tế bền vững.

(7) Thực hiện đồng bộ chương trình cải cách hành chính, trọng tâm là đơn giản hóa các thủ tục hành chính và cải cách chế độ công vụ, công chức. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức.

(8) Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cấn bộ cấp cơ sở, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn.

Với truyền thống vẻ vang 70 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành, cùng những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ tỉnh sẽ tiếp tục lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh nắm vững thời cơ, vượt qua mọi khó khăn thách thức, xây dựng tỉnh Yên Bái phát triển toàn diện và bền vững, trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Tây Bắc Tổ quốc.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
TỈNH UỶ YÊN BÁI

Các tin khác
Toàn cảnh Lễ khai mạc.

Theo đặc phái viên TTXVN, sáng 27/4, tại Trung tâm Hội nghị Kuala Lumpur, Malaysia, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tham dự lễ khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 26.

Những nén tâm hương tri ân với các liệt sĩ của cán bộ Báo Yên Bái tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.

YBĐT - Tháng Tư về, hơi thở mùa xuân vẫn còn vương vấn trên những cành lá, trong cảm xúc của mỗi người. Và tháng Tư về cũng nhắc nhớ cho mỗi người con dân đất Việt về ngày đại thắng thống nhất đất nước, mở ra một chiều cao bất tận, chiều cao một lý tưởng sống đẹp của dân tộc. Cho đến bây giờ đã là một cuộc thay da đổi thịt, đất nước được độc lập, bình an mà mỗi khi nhớ về những ngày tháng Tư lịch sử có biết bao người lại “thương trào nước mắt”…

Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ phường Tân An (thị xã Nghĩa Lộ) lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 bỏ phiếu bầu Ban chấp hành.

YBĐT - Thực hiện Hướng dẫn số 10 - HD/UBKTTW của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội Đảng các cấp, thời gian qua, Thị ủy Nghĩa Lộ đã chỉ đạo các cấp, ngành làm tốt công tác kiểm tra Đảng. Phóng viên (PV) Báo Yên Bái có cuộc trao đổi với đồng chí Hà Văn Nam - Phó bí thư Thường trực Thị ủy về công tác kiểm tra phục vụ đại hội Đảng các cấp.

YBĐT - Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất cho đại hội các chi, đảng bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy (BTVHU) Văn Yên đã lựa chọn Đảng bộ xã An Thịnh, xã Yên Hưng, Chi bộ Trung tâm Dạy nghề và Giáo dục thường xuyên để tổ chức đại hội điểm và rút kinh nghiệm triển khai trong toàn huyện.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục