Dồn sức phát triển kinh tế - xã hội
Tây Nguyên được coi là "nóc nhà của Đông Dương” gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước. Đặc biệt hơn, Tây Nguyên còn là trung tâm của miền núi nam Đông Dương, nằm ở ngã ba biên giới giữa Việt Nam - Lào - Campuchia.
Từ sau ngày đất nước giải phóng, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo và chăm lo đầu tư xây dựng để Tây Nguyên phát triển, đi lên cùng cả nước. Đặc biệt là trong 5 năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2005), mặc dù các thế lực thù địch liên tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây ra 2 cuộc biểu tình, bạo loạn (tháng 2/2001 và tháng 4/2004), làm cho Tây Nguyên khó khăn, bất ổn nhưng được sự lãnh đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước và nhất là từ khi có Nghị quyết số 10/ NQ-TW, ngày 18/01/2002 của Bộ Chính trị về "Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên”, tình hình kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên tiếp tục phát triển; quốc phòng, an ninh ổn định.
Gần 5 năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước kể từ khi thống nhất đất nước với quyết tâm chính trị xuyên suốt "xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn vững chắc về an ninh - quốc phòng và vùng trọng điểm kinh tế của cả nước”. Chủ trương của Đảng ngày càng bám sâu, bắt nhịp cùng đời sống người dân Tây Nguyên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2019 của vùng Tây Nguyên đạt gần 8,5%, cao hơn so với bình quân chung của cả nước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục tăng, theo đó tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn vùng đạt trên 124.000 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2018.
Đồng chí Điểu Kré, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương, nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cho biết, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên đã tập trung giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mang tính đột phá, nhất là về đất đai, nhà ở, xóa đói nghèo… Từ thực tiễn ở khu vực Tây Nguyên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Chương trình mục tiêu quốc gia như: 132,134,154,167… về giải quyết đất đai, nhà ở, việc làm, nước sinh hoạt… cho bà con đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây là những chủ trương đột phá, có ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc được đúc kết từ thực tiễn vùng Tây Nguyên và sau đó được áp dụng đồng bộ trong cả nước.
Vấn đề cấp bách của Tây Nguyên là giao thông. Vì vậy, trong nhiều năm qua, Nhà nước phát huy mọi nguồn lực nhằm phát triển mạng lưới giao thông trong khu vực. Ngày nay, đường bộ toàn mạng lưới có độ dài gần 40.000 km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ qua Tây Nguyên có tổng độ dài 2.517 km; các liên tỉnh lộ gần 2.035 km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối liền Tây Nguyên với các nước láng giềng. Đường Hồ Chí Minh cùng đường hành lang Đông - Tây xuyên qua vùng đã làm thay đổi diện mạo những buôn làng từng là vùng sâu, vùng xa. Hàng không phát triển nhanh với ba sân bay: Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Pleiku. Dự án khôi phục đường sắt Đà Lạt - Tháp Chàm và mở tuyến đường sắt mới phục vụ cho các Nhà máy Alumin Nhân Cơ, Tân Rai đang được tính toán.
Đến nay, tỷ lệ hộ dân Tây Nguyên được dùng nước hợp vệ sinh lên 88%, có 100% xã và 99,39% thôn, buôn có điện. 100% các tỉnh trong khu vực đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt gần 95%. 100% số xã có trạm y tế, trong đó 67% số xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao không ngừng phát triển, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc được duy trì và phát huy. Thu nhập bình quân đầu người khu vực Tây Nguyên năm 2018 đạt 46,43 triệu đồng, tăng 15 lần so với năm 2001; tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm giảm 3%. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp, đạt được nhiều kết quả khả quan làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đờ sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên không ngừng được cải thiện.
Son sắt niềm tin theo Đảng
Hôm nay, sau 45 năm năm giải phóng, miền đất đỏ Tây Nguyên với hoa cúc quỳ nở vàng rực rỡ, những lô cao su xanh thẳm buôn làng, những vườn cà phê, chè, hồ tiêu xum xuê, trĩu hạt… Đi dọc miền đất rừng xanh thẳm, chúng tôi gặp A Thút, người dân tộc Xơ Đăng ở xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, ông cười tươi rồi cầm chặt lấy tay tôi: "Vui nhiều rồi. Cà phê được mùa, ruộng no nước cho cái lúa nhiều bông”. Theo A Thút, người dân tộc Xơ Đăng ở vùng quê này xưa kia nghèo đói lắm. Người dân phải vào rừng đào củ, lấy rau kiếm sống qua ngày. Bây giờ đã no cái bụng, lũ trẻ có trường học khang trang, có trạm y tế, nhà tái định cư được xây dựng vững chãi lại càng nhớ đến công lao của Đảng bộ, chính quyền huyện, tỉnh đã lo cho dân từng miếng cơm, tấm áo. Vài năm trước, A Thút còn được dẫn cả đội cồng chiêng của làng Đắk Vớt quê ông sang tận nước Mỹ biểu diễn nữa. "Đúng như là một giấc mơ! Cảm ơn Đảng, Nhà nước đã lo cho dân, bà con dân làng vui cái bụng lắm cán bộ à”, A Thút xúc động.
Đầu năm nay, chúng tôi đến thăm cụ Kso Ní, 94 tuổi, người dân tộc Jơ Rai, nguyên đại biểu Quốc hội khóa I, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, một trong những cán bộ lão thành của Tây Nguyên thời chống Pháp (cụ vừa mất). Cụ là thân sinh của nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội - Kso Phước. Chuyện tâm đắc nhất với cụ vẫn là những năm tháng hào hùng đánh giặc, giữ làng. Rồi bàn chuyện hôm nay, chuyện điện đã về tận các buôn làng biên giới Kon Cho Ro, Chư Păh, Ia Grai, Krông Pa… đường giao thông xẻ núi đã về với "ốc đảo” Kon Pne - vùng căn cứ kháng chiến. Rồi chuyện về chợ búa, trường học, trạm xá và những cánh đồng ngô, lúa bạt ngàn, quanh năm xanh ngắt nhờ công trình thuỷ lợi A Yun Hạ. Cụ rất xúc động khi nhắc lại lời cố bác sĩ Y Ngông Niếk KĐăm đã từng thay mặt đồng bào Tây Nguyên nói lên ý chí sắt đá: "Có sức mạnh nào cản nổi núi rừng Tây Nguyên không đi theo cách mạng? Không, không có sức mạnh nào cản nổi đồng bào Tây Nguyên đi theo cách mạng. Núi rừng Tây Nguyên luôn thương nhớ và mãi mãi đi theo Bác Hồ…”.
Trong những ngày cuối năm Kỷ Hợi vừa qua, chúng tôi đã gặp rất nhiều đại biểu tiêu biểu, đại diện cho khắp các thôn, làng về dự Đại hội các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum lần thứ III. Từ vị tướng của dân tộc Jẻ Triêng - Đinh Hồng Đe đã ngoài bảy mươi tuổi đến bà Y Hếp, thôn Đắk Tang, xã Đắk Xú, huyện Ngọc Hồi; ông A Khuất, làng Đắk Mút, xã Đắk Ma, huyện Đắk Hà; bà Y Liên, thôn Mô Tả, xã Đắk Hà, huyện Tu Mơ Rông.... đều có chung cảm nhận rằng nông thôn Kon Tum đã đổi thay nhanh quá, cuộc sống mới đã lan tỏa đến từng nhà. Mừng vui hơn cả là trên mỗi thôn, làng, từ vùng sâu Đắk Glei, Ngọc Hồi, Đắk Tô, Tu Mơ Rông, Sa Thầy, Kon Plông, Đắk Hà, Kon Rẫy... đã thấy một thế trận lòng dân vững chắc. Đó là thành quả của một hệ thống chính trị vừng vàng từ tỉnh đến các buôn làng, là nhân tố quan trọng để ổn định và phát triển.
Đến Tây Nguyên hôm nay, cho dù ở tít tắp vùng sâu, người dân không còn chỉ lo cho "cái bụng” như trước mà đã hướng đến của ăn, của để, mặc đẹp, ăn ngon. Ví như gia đình chị Rơ Châm Buk, người dân tộc Jơ Rai ở xã Ia Boòng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Chị dẫn chúng tôi vào nhà rồi tâm sự: "Tôi là công nhân Công ty cao su Chư Prông, làm cao su bây giờ lương cao, thưởng lớn, thật là ưng cái bụng lắm”. Lương chị mỗi tháng trên 6 triệu đồng, chưa tính thưởng nếu vượt khoán. Rồi như vợ chồng trẻ Rơ Mah Bli và Siu Keng ở làng Kla Xá, xã Chư Đrăng. Với 3 ha cao su nhận khoán, có những tháng thu về gần 15 triệu đồng. Tôi còn gặp những gia đình ở chân núi Chư Prông như Kpả Y Hyoi, Siu Lun, Rơ Mah Lớ… đều bắt gặp ở họ những gương mặt rạng ngời, toát lên một cuộc sống no đủ, ấm êm trên đất Tây Nguyên hùng vĩ. Đời sống mọi mặt được nâng lên, tiếng cồng, tiếng chiêng ngân xa hơn, trai gái trong làng hát thêm hay, múa thêm đẹp vòng xoang mừng đón cuộc sống mới. Tôi đi trong miên man giữa núi rừng Chư Prông xanh thẳm mà lòng phấn chấn, nghĩ về công cuộc đổi mới thật là kỳ diệu.
Hôm qua anh hùng, hôm nay giàu đẹp, đến với Tây Nguyên hôm nay, ta nghe âm hưởng từ cuộc sống dội về như nặng sâu tình Dân, nghĩa Đảng. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chất phác và thuần hậu. Nhưng bên trong vẻ thuần hậu, chất phác ấy là sự thông tuệ, bản lĩnh được chưng cất, kết tinh từ truyền thống văn hóa đã ngàn xưa, để đến hôm nay, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên lại xiết chặt tay, viết tiếp bản đại hợp xướng hào hùng về chủ đề cách mạng, về tấm lòng trung trinh, son sắt với Đảng, với quê hương kiên cường và anh dũng. Những kỳ tích trên chặng đường mới đã minh chứng cho sự chỉ lối, soi đường của Nghị quyết hợp quy luật, đúng lòng dân của Đảng; biết dựa vào dân, bắt nhịp hơi thở cuộc sống của Nhân dân, cùng chung sức đứng lên, bước tiếp trong tâm thế vững vàng để kiến thiết, dựng xây vùng đất này ngày càng giàu đẹp.
45 năm quê hương giải phóng, trở về với Tây Nguyên, vùng đất nắng gió ân tình giữa mùa Xuân của những tiếng cồng chiêng trầm hùng, của tiếng đàn Tơ-rưng, Krông put dịu ngọt, thiết tha… và cả những tiếng chim rừng lánh lót giữa một màu xanh thẳm của núi rừng rất đỗi bình yên. Mừng buôn làng đổi mới, nào, hãy nổi cồng chiêng lên, cho tiếng chiêng thanh âm vang khắp núi rừng, cho tiếng cồng trầm thấm đượm vào đất đai, sông suối ngàn đời của ông cha để lại. Trên khắp buôn làng Tây Nguên xanh thẳm lại rộn tiếng cồng chiêng, một âm thanh đã trở thành sức mạnh, niềm tin, vang vọng bài ca Kết đoàn trong dựng xây, kiến thiết…/.
(Theo ĐCSVN)