Quyền sống trong Dự thảo thể hiện đầy đủ, toàn diện và phù hợp luật pháp quốc tế về quyền con người
- Cập nhật: Thứ sáu, 10/5/2013 | 9:28:10 AM
YBĐT - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa dân tộc Việt Nam từ những người nô lệ trở thành những người chủ thực sự của đất nước, mỗi người dân đều được hưởng các quyền con người, quyền công dân.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2 tháng 9 năm 1945 không những đã kế thừa tinh hoa về quyền con người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới bằng việc nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ và “Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền” của Pháp.
Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Ngay sau khi nước mà được tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt để thực hiện quyền dân chủ, quyền công dân. Về việc ban hành Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”.
Mặc dù được soạn thảo trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn nhưng Hiến pháp năm 1946 đã dành sự quan tâm đặc biệt về vấn đề quyền con người, trong 70 điều thì có 18 điều quy định tập trung về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Nhận xét về Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Bản Hiến pháp chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông, đã được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân.
Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tập 4, trang 440).
Ngày 31 tháng 12 năm 1959, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Lúc bấy giờ, miền Bắc đã giành được độc lập, cơ sở kinh tế của chế độ ta mới đang bắt đầu hình thành, cuộc kháng chiến ở miền Nam đang bắt đầu.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội cho phép quy định về quyền và nghĩa vụ công dân một cách đầy đủ hơn, bổ sung thêm các quyền về kinh tế, văn hóa so với Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 1959 với 10 chương, 112 điều, trong đó có 21 điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân.
Sau khi đất nước được giải phóng, Hiến pháp năm 1980 được Nhà nước ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1980 với vấn đề cơ bản nhất, xác định bản chất giai cấp của Nhà nước, thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Hiến pháp năm 1980, có 29 điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân.
Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định một cách đầy đủ hơn và mang hơi hướng của chế độ tập trung, bao cấp. Những quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp 1980 là cơ sở để Nhà nước ta xây dựng một loạt các văn bản pháp luật chi tiết hóa, cụ thể hóa quyền con người trong đời sống xã hội.
Trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra và thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Hiến pháp năm 1992 được ban hành trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1980 và những bản Hiến pháp trước đó. Vấn đề quyền con người được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng.
Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992 về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”. Một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp 1992 là hướng mạnh vào tôn trọng, bảo đảm các quyền công dân.
Theo Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì chương quy định Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 34 điều. Cùng với hệ thống pháp luật của Nhà nước ngày càng hoàn thiện, hầu như các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội đều được điều chỉnh bởi các đạo luật đã cụ thể hóa, chi tiết hóa các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1992 để công dân có thể dễ dàng thực hiện trong cuộc sống, quyền con người ở Việt Nam ngày càng được tôn trọng và bảo đảm.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có sự khác biệt nhất định song lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quyền con người có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân được áp dụng chung cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc khác nhau đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng.
Còn quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch, là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch nước đó mới được hưởng các quyền công dân mà nước đó quy định.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã bổ sung một số quyền mới, đó là: quyền sống (Điều 21); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 22); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 23); quyền sở hữu tư nhân (Điều 33); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 35); quyền kết hôn và ly hôn (Điều 39); quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 44); quyền xác định dân tộc (Điều 45); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 46)…
Dự thảo bổ sung một số nguyên tắc hiến định, đó là “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 15). Các quy định này vừa là kết quả của quá trình phát triển đổi mới đất nước đồng thời cũng phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, là thành viên.
Xin trích một số nội dung quy định của pháp luật quốc tế về quyền sống: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”; tại Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) 1966 tiếp tục khẳng định: “Mọi người đều có quyền cố hữu là quyền được sống.
Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước quyền sống một cách tùy tiện”. Ngoài ra, một số công ước quốc tế khác về quyền con người cũng đề cập đến quyền sống như: Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng, Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác A-pác-thai, Công ước về quyền trẻ em 1989, Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất tích, Công ước về quyền của những người khuyết tật năm 2006…
Một vấn đề đặt ra là khi nghiên cứu chế định về quyền sống trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không nên hiểu quyền này theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng mà quyền này bao gồm cả khía cạnh nhằm đảm bảo sự tồn tại của con người.
Việc bảo đảm quyền sống đòi hỏi Nhà nước phải có những biện pháp để đảm bảo quyền được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển về thể chất, làm giảm tỷ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của người dân, xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và các dịch bệnh, xóa đói, giảm nghèo… Các chế định này được thể hiện khá toàn diện và ngày càng hoàn thiện trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền sống, luật pháp quốc tế không bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt tử hình song các quốc gia đều phải có nghĩa vụ hạn chế sử dụng nó và việc giới hạn áp dụng hình phạt này cũng được coi là một hình thức bảo vệ quyền sống. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng chống tội phạm, pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn duy trì hình phạt tử hình song đang thu hẹp dần phạm vi áp dụng hình phạt này.
Cụ thể là từ 44 điều có khung hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự năm 1985 còn 29 điều trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và hiện nay còn 25 điều có khung hình phạt tử hình theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa XII thông qua năm 2009. Về giới hạn áp dụng, Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này, hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân”.
Như vậy, quyền sống là quyền tất yếu, vốn có của quyền con người; là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất, lần đầu tiên được quy định với ý nghĩa sâu sắc, cụ thể, đầy đủ và toàn diện về quyền con người trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đánh dấu sự hoàn thiện của Hiến pháp - đạo luật gốc trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta và phù hợp với luật pháp quốc tế về quyền con người.
Luật gia: Ngọc Giang Sơn - Phó giám đốc Sở Tư pháp Yên Bái
Ông Vũ KhẢ - Trưởng ban Công tác mặt trận phố Tân Hiếu II, phường Minh Tân (thành phố Yên Bái):
Tại khoản 1, Điều 4, Dự thảo quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động… xã hội”, theo tôi nên bỏ hai chữ “đồng thời” mà khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của nhân dân lao động. Đề nghị bổ sung vào khoản 3, Điều 4: “Tổ chức Đảng cấp trên phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện Hiến pháp của tổ chức Đảng cấp dưới; đảng viên phải gương mẫu thực hiện Hiến pháp”.
Khoản 2, Điều 7, Dự thảo quy định: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, đề nghị bổ sung như sau: “Nếu đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì bị Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cử tri bãi nhiệm đại biểu”. Khoản 1, Điều 55 ghi: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường…”, đề nghị bổ sung là: “Nhà nước phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, phù hợp với công cuộc đổi mới của Đảng và đất nước và đảm bảo nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường”. Đất nước và dân tộc ta đang sống trong hòa bình nhưng cũng có nhiều yếu tố tiềm ẩn gây mất trật tự an ninh quốc gia và xung đột vũ trang, cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ý thức về vấn đề này. Tại Điều 69 nên bổ sung, chỉnh sửa và khẳng định như sau: “Bảo vệ Tổ quốc và an ninh quốc gia là nghĩa vụ, trách nhiệm, sự nghiệp của toàn dân. Mọi công dân phải có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ quốc phòng - an ninh”. Tại Điều 123, Dự thảo ghi: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý". Ghi như vậy là chưa rõ và chưa nghiêm, đề nghị sửa lại là: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý nghiêm, công khai bằng pháp luật”. Tại khoản 4, Điều 124, Dự thảo ghi: “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”, đề nghị sửa lại là: “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất 90% tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”. Q.N (thực hiện) |
Các tin khác
YBĐT - Ngày 9/5, đoàn công tác của tỉnh do đồng chí Phạm Duy Cường – Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng đoàn làm việc với huyện Mù Cang Chải nắm tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 4 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ thời gian tới.
YBĐT - Trước tình hình dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng đang diễn biến phức tạp trên cả nước, ngày 7/5/2013, UBND tỉnh đã có Chỉ thị số 08/CT-UBND “Về việc triển khai Tháng vệ sinh, tiêu độc khử trùng môi trường năm 2013”. Sau đây là nội dung chi tiết:
YBĐT - Ngày 9/5, tại Cục thuế tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội khoá 13 tỉnh Yên Bái tổ chức Hội nghị lấy ý kiến tham gia vào các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT). Dự và chủ trì hội nghị có đồng chí Nguyễn Công Bình- Phó trưởng Đoàn địa biểu Quốc hội tỉnh cùng lãnh đạo Sở Tài chính, Cục thuế và các phòng, ban, đơn vị trực thuộc.
YBĐT - Giữ lại quy định “Ủy ban nhân dân do HĐND bầu” như Điều 123, Hiến pháp năm 1992 bởi như vậy thể hiện bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà HĐND do nhân dân địa phương bầu ra.