Chè Yên Bái cần một thương hiệu
- Cập nhật: Thứ tư, 5/9/2012 | 9:30:04 AM
YBĐT - Đã một thời gian dài tỉnh Yên Bái đứng thứ hai cả nước về diện tích cũng như sản lượng chè so với các địa phương sản xuất, kinh doanh chè. Nhưng hôm nay chỉ còn diện tích, trong khi sản lượng đã giảm xuống hàng thứ tư, thứ năm, giá trị kinh tế thu được từ chè không tương xứng với tiềm năng và sự đầu tư.
Nhờ cải tạo giống chè cũ bằng giống chè mới, nhiều hộ dân ở Văn Chấn đã sống được bằng cây chè.
|
Yên Bái là đất của chè. Câu nói đó có thể nhiều người chưa thỏa đáng nhưng với hàng vạn cây chè cổ thụ Shan tuyết Suối Giàng, cùng với những nương chè, đồi chè do những người lính Cụ Hồ gây dựng từ những năm 65-70 thế kỷ trước, đến nay toàn tỉnh có 13 ngàn ha chè, hàng chục vạn lao động sống bằng chè. Những hiệu quả kinh tế từ cây chè mang lại cho người dân Yên Bái trong mấy chục năm qua thật đáng tự hào, chè giải quyết công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu trong nông nghiệp, nông thôn là điều mà không ai có thể phủ nhận được.
Bình quân mỗi năm toàn tỉnh thu hái trên 85 ngàn tấn chè búp tươi, các doanh nghiệp đã chế biến 22-23 ngàn tấn chè thành phẩm, một khối lượng lớn như vậy nhưng giá trị thu được chỉ đạt trên dưới 400 tỷ đồng. Đã một thời sản phẩm chè Yên Bái nổi tiếng trong và ngoài nước được thị trường, người tiêu dùng đánh giá cao nhưng mãi đến năm 2006, lần đầu tiên Yên Bái có sản phẩm chè Suối Giàng của Công ty cổ phần Chè Văn Hưng được Hiệp hội chè Việt Nam tôn vinh thương hiệu quốc gia chè Việt.
Khi mới được tôn vinh nhiều người làm chè kỳ vọng đây là sự khởi đầu tốt đẹp cho ngành chè Yên Bái phát triển bởi thương hiệu chè Việt là một thương hiệu danh giá và uy tín nhất trong nước. Thế nhưng, sản phẩm chè Shan tuyết Suối Giàng cũng không phát huy và giữ được thương hiệu cao quý đó mà đang ngày một phai mờ trong tâm trí người tiêu dùng.
Thương hiệu chè Việt đã thế, sản phẩm chè của Yên Bái cũng ngày một èo uột không kém. Sản phẩm chè không có một thương hiệu nào, hay nói đúng hơn là không có một sản phẩm chè cụ thể nào đủ sức chinh phục người tiêu dùng. Nếu nhìn diện tích chè đến số doanh nghiệp, người lao động tham gia sản xuất, kinh doanh chè thì khá hùng hậu nhưng chè Yên Bái lại không có một tên tuổi cụ thể trên thị trường.
Có nhiều doanh nghiệp, tổng công ty mua chè của Yên Bái về chỉ việc đóng bao lấy một thương hiệu khác bán giá cao gấp nhiều lần và vẫn được thị trường chấp nhận, các nhà quản lý, doanh nghiệp sản xuất chè Yên Bái đều biết cả nhưng dường như vẫn không tìm ra được lời giải.
Mặc dù trong thời gian gần đây, tỉnh đã đầu tư khá nhiều nguồn lực cho việc trồng, cải tạo, thay thế chè già cỗi bằng các giống chè lai, chè nhập nội chất lượng cao đáp ứng cho chế biến. Năm 2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, UBND tỉnh phê duyệt Dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học Yên Bái, tổng vốn đầu tư 3.222.707 USD.
Mục tiêu của dự án quy hoạch và xây dựng vùng sản xuất chè tập trung trên địa bàn; xây dựng các mô hình sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP; tham gia xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm chè an toàn trên sàn giao dịch và đấu giá chè Yên Bái... nhưng sản xuất, kinh doanh chè vẫn chưa thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Sản phẩm chè Yên Bái chủ yếu vẫn đóng bao tải không nhãn mác bán cho các tư thương và các công ty, tổng công ty trung gian.
Để ngành chè Yên Bái phát triển tương xứng với tiềm năng, vốn đầu tư cũng như công sức, tâm huyết của hàng vạn hộ làm chè, đưa cây chè trở thành một cây chủ lực trong xóa đói nghèo và làm giàu chúng ta cần tiếp tục cải tạo giống chè già cỗi bằng giống chè lai, chè nhập nội năng suất, chất lượng cao đáp ứng cho chế biến.
Trong chế biến cần có “cuộc cải tổ” hay “tái cơ cấu” lại ngành chè từ trong sản xuất nông nghiệp đến công nghiệp chế biến. Đối với những vùng nguyên liệu tập trung nên chọn những công ty, tập đoàn đủ tiềm lực về tài chính cũng như công nghệ chế biến chè tốt để cho thuê toàn bộ hoặc liên doanh, liên kết với nông dân, công nhân vùng nguyên liệu đầu tư làm bật dậy vùng chè. Đã đến lúc ngành nông nghiệp và các ngành liên quan kiểm tra, rà soát, đánh giá những doanh nghiệp chè nào đủ điều kiện từ vệ sinh công nghiệp, công nghệ chế biến lẫn tiềm lực tài chính thì cho sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp nào không đạt thì thu hồi giấy phép, sáp nhập hoặc giải thể...
Một vấn đề mang tính quyết định là phải chọn bằng được sản phẩm chè chất lượng, uy tín để xây dựng thương hiệu riêng cho chè Yên Bái. Vẫn biết việc xây dựng thương hiệu không thể làm một sớm một chiều nhưng tỉnh cũng cần có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu chè theo lộ trình cụ thể. Sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận không thể không có thương hiệu.
Doanh nghiệp chè cần liên doanh, liên kết, gắn bó mật thiết với người dân vùng nguyên liệu để cùng sản xuất, kinh doanh và cùng hưởng lợi cũng như chia sẻ những khó khăn. Đã hết rồi cái thời mạnh ai nấy làm, Hội những người làm chè phải phát huy hết vai trò của mình trong việc liên kết xây dựng thương hiệu chung cho chè Yên Bái cũng như việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ...
Giải quyết tốt những tồn tại và tìm được hướng đi thích hợp, chắc chắn sản xuất kinh doanh chè sẽ gặt hái được nhiều thắng lợi và phát triển ổn định, bền vững.
Thanh Phúc
Các tin khác
YBĐT - Tính đến hết tháng 7/2012, các xã, phường trên địa bàn thành phố Yên Bái đã tiến hành thu hồi 31.883 tờ khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, so với 32.827 tờ khai đã phát ra, đạt 97%, trong đó có 135 tờ khai của các tổ chức và 31.748 tờ khai của cá nhân, hộ gia đình.
Báo cáo vừa được Ủy ban Kinh tế Quốc hội công bố cho thấy tỷ lệ thuế - phí trên GDP ở Việt Nam cao gấp 1,4 - 3 lần so với các nước trong khu vực.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa có công văn yêu cầu Bộ Công thương chủ trì, tổng hợp tình hình vi phạm về đầu cơ găm hàng, ngừng bán hàng không có lý do chính đáng trong kinh doanh xăng dầu thời gian vừa qua, nhất là trong 2 lần tăng giá gần đây.
YBĐT - Ngày 4/9, UBND tỉnh Yên Bái đã tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả triển khai thực hiện Nghị định 99/2010/ NĐ-CP của Chỉnh phủ về Chính sách chi trả dịch vụ môi trường.