Hiện nay tuổi thọ bình quân của người Việt Nam với nam giới là 72,1 tuổi; nữ là 82,3 tuổi; (bình quân là 76,6 tuổi). Những năm qua, công tác dân số đã bảo đảm cho đất nước có cơ cấu dân số hợp lý để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong tình hình mới, công tác dân số lại gặp khá nhiều thách thức về tỷ lệ sinh giữa các vùng.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên báo chí đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Doãn Tú - Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình (Bộ Y tế).
Khống chế thành công gia tăng dân số quá nhanh
- Thưa Tổng Cục trưởng, ông đánh giá như thế nào về những thành tựu của công tác dân số trong thời gian qua?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Sau nhiều năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình (Nghị quyết 4), công tác dân số ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về nhận thức và thực hiện.
Số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ giảm nhanh, đạt mức thay thế (2,1 con) vào năm 2006, sớm 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết 4 và được duy trì trong hơn một thập kỷ qua. Mô hình gia đình hai con đã trở thành chuẩn mực xã hội phổ biến. Tốc độ dân số gia tăng dân số quá nhanh đã được khống chế thành công. Cơ cấu dân số có chuyển biến tích cực.
Ông Nguyễn Doãn Tú - Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - kế hoạch hoá gia đình (Bộ Y tế).
Việt Nam đã bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007, mở ra cơ hội cho phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Mật độ dân số giữa các vùng được phân bố hợp lý hơn.
Theo thống kê, dân số Việt Nam năm 2018 khoảng 95 triệu người. Ước tính quy mô dân số đã giảm được khoảng 20 triệu người nhờ có các chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình phù hợp trong thời gian qua. Kết quả đạt được trong công tác dân số thời gian qua đã góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
- Trọng tâm của công tác dân số trong tình hình mới hiện nay là gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-TW về công tác dân số trong tình hình mới (Nghị quyết 21) đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo việc tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Điều này phù hợp với định hướng của Hội nghị Quốc tế về Dân số và phát triển tổ chức tại Cairo, Ai cập năm 1994 và chủ đề của Ngày Dân số Thế giới năm 2019 của Quỹ Dân số Liên hợp quốc: "25 năm sau Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD): Thúc đẩy tiến độ nhằm đạt được những nội dung đã cam kết.”
Đây cũng là nội dung phù hợp với định hướng của Hội nghị thượng đỉnh về Dân số và Phát triển sẽ được tổ chức trong thời gian tới tại Nairobi từ ngày 12-14/11/2019.
Mục tiêu của công tác dân số đến năm 2030 được xác định là: Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế-xã hội.
Bên cạnh đó, trong công tác dân số cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số, phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Mất cân bằng giới tính nghiêm trọng
- Hiện nay, có thông tin cho rằng, tại nhiều tỉnh mức sinh giảm xuống thấp và đáng lo ngại. Tổng Cục trưởng có thể cho biết, đó là những tỉnh nào? Và với những địa phương này, chúng ta cần có chiến lược gì để mức sinh tăng lên?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Hiện nay, Việt Nam đã đạt và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước. Số con trung bình mỗi phụ nữ đã giảm từ 3,74 con năm 1992 xuống đạt mức sinh thay thế 2,09 con năm 2006 và tiếp tục được duy trì cho đến nay.
Với việc duy trì mức sinh thay thế kéo dài hơn 12 năm, Việt Nam đã kết thúc giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học quan trọng, chuyển từ mức sinh cao sang mức sinh thấp, hợp lý.
Theo tôi, một trong những thách thức của công tác dân số hiện nay là mặc dù tỷ suất sinh chung của cả nước là khoảng 2 con trên 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhưng ở một số vùng đô thị, kinh tế-xã hội phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế. Điển hình như: Đồng Tháp: 1,34 con/phụ nữ, Thành phố Hồ Chí Minh: 1,36 con/phụ nữ, Bà Rịa Vũng Tàu: 1,37 con/phụ nữ, Hậu Giang: 1,53 con/phụ nữ.
Để nâng mức sinh ở các tỉnh này, trước mắt ngành dân số đã thay đổi thông điệp truyền thông ở các tỉnh này như: "Mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con,” xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích người dân sinh đủ 2 con, xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án điều chỉnh mức sinh giữa các vùng, đối tượng đến năm 2030.
- Về vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh đến nay đã có những biến chuyển tích cực hơn so với 10 năm trước không, thưa ông?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Hiện nay vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh đã mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng, cả thành thị và nông thôn. Bình thường, tỷ số này dao động từ 103-107 bé trai tương ứng với 100 bé gái.
Ở Việt Nam, tình trạng này xuất hiện sau, nhưng với tốc độ nhanh từ năm 2006 ở mức 109,8 bé trai/100 bé gái lên 112,1/100 vào năm 2008, cao nhất là 113,8/100 vào năm 2013, sau đó giảm xuống còn 112,2/100 năm 2014 và 2016, mức 112,1/100 năm 2015 và 2017, năm 2018 lại tăng lên 115,1 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Như vậy sau 13 năm, chúng ta đã khống chế được tỷ lệ tăng nhanh tỷ số giới tính khi sinh.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu Nghị quyết 21/NQ-TW về công tác dân số trong tình hình mới là giảm tỷ lệ giới tính khi sinh đến năm 2030 xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống thì thời gian tới ngành dân số tập trung vào nhiều nhiệm vụ và giải pháp.
Đó là các giải pháp như: Truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với công tác kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm các quy định về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật…
- Theo ông, thách thức lớn nhất đối với vấn đề dân số và đặt ra đối với ngành dân số hiện nay là gì?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Mặc dù công tác dân số đã đạt được đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nhưng hiện nay, công tác dân số đang phải đối mặt với một số thách thức.
Thách thức lớn nhất là mức sinh khác biệt đáng kể giữa các vùng miền, khu vực nông thôn và thành thị. Khu vực kinh tế-xã hội nhiều khó khăn có mức sinh cao, có nơi rất cao. Trong khi ở một số vùng đô thị, kinh tế-xã hội phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế.
Sự chênh lệch mức sinh giữa các vùng sẽ trở thành yếu tố bất lợi cho việc ổn định quy mô dân số và phát triển kinh tế-xã hội, tác động tiêu cực đến bảo đảm an sinh xã hội.
Tình trạng người có điều kiện kinh tế khó khăn, ít có điều kiện nuôi dạy con tốt lại đẻ nhiều con, trong khi người có điều kiện kinh tế khá giả lại sinh ít con làm ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng dân số.
Mặc dù đã có những điều chỉnh chính sách, quy định theo hướng làm tăng mức sinh, song ở hầu hết những nơi mức sinh đã xuống thấp, chưa có dấu hiệu tăng mức sinh trở lại, thậm chí vẫn tiếp tục giảm, nhất là các tỉnh phía Nam. Trong khi tại phía Bắc, mức sinh không ổn định, một số nơi đã tăng cao trở lại.
Tiếp đó là các thách thức như: Mất cân bằng giới tính khi sinh theo hướng thừa nam thiếu nữ đã mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng, cả thành thị và nông thôn. Dân số vàng của Việt Nam mới chỉ đạt tiêu chí về số lượng. Chất lượng nguồn nhân lực cũng như năng suất lao động còn rất hạn chế, thiếu chủ động trong nghiên cứu, đề ra giải pháp, ban hành cơ chế chính sách đồng bộ chủ động phát huy lợi thế dân số vàng.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong 7 nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Trong khi đó, các điều kiện kinh tế-xã hội chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng kịp với tốc độ già hóa dân số. Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi còn hạn chế. Chưa phát huy khả năng, vai trò của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình.
Nhiều thống kê đã chỉ ra, sức khỏe của người cao tuổi trong tình trạng yếu và rất yếu, mắc cùng một lúc nhiều bệnh, trong đó có các bệnh cần phải điều trị suốt đời. Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe người cao tuổi chưa phát triển, số nhân viên tại cộng đồng vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về nghiệp vụ, kỹ năng.
Củng cố mạng lưới chuyên ngành lão khoa
- Như ông phân tích, trong giai đoạn này, chúng ta đã bắt đầu nhận thấy những vấn đề bất cập bộc lộ: tuổi thọ bình quân của người dân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp. Vậy, để khắc phục những bất cập này, chúng ta cần có những chiến lược gì trong thời gian tới?
Ông Nguyễn Doãn Tú: Việt Nam là một trong 7 nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Trong khi đó, các điều kiện kinh tế-xã hội chưa được chuẩn bị tốt để thích ứng kịp với tốc độ già hóa dân số và vấn đề chăm sóc sức khỏe người cao tuổi còn hạn chế, chưa phát huy khả năng, vai trò của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình.
Chính vì vậy, ngành dân số trong cả nước đang tích cực triển khai các giải pháp nhằm đạt mục tiêu: "Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm” theo tinh thần Nghị quyết số 21/NQ-TW về công tác dân số trong tình hình.
Chúng tôi đang tiếp tục thực hiện Đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025 với mục tiêu: "Đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thích ứng với giai đoạn già hóa dân số góp phần thực hiện Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi, Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản, Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.”
Tổng cục Dân số đang xây dựng Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, Đề án chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi đến năm 2030 và Đề án Truyền thông dân số đến năm 2030 để đề ra các giải pháp và hoạt động cụ thể, phù hợp như phát triển mạng lưới chăm sóc người cao tuổi phù hợp với tốc độ già hóa dân số.
Đặc biệt, ngành y tế-dân số cũng tập trung củng cố mạng lưới chuyên ngành lão khoa theo nguyên tắc gắn kết dự phòng, nâng cao sức khỏe, điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ; phát triển hệ thống chuyên ngành lão khoa trong hệ thống y tế…
- Xin cảm ơn ông!
(Theo vietnam+)