Xã Nghĩa An khôi phục, bảo tồn lễ hội Hạn Khuống

  • Cập nhật: Thứ hai, 27/1/2025 | 11:06:38 AM

YênBái - Hạn Khuống là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo của người Thái, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Loại hình nghệ thuật này được hình thành và phát triển cùng với quá trình lịch sử hình thành bản sắc văn hóa truyền thống gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt, thể hiện đời sống vật chất và tinh thần của người Thái.

Màn tái hiện sinh hoạt Hạn Khuống của người Thái xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ.
Màn tái hiện sinh hoạt Hạn Khuống của người Thái xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ.

Ở Hạn Khuống các chàng trai cô gái Thái được đắm mình vào cuộc vui hát, tìm hiểu nhau để rồi kết tóc se duyên, bày tỏ tình yêu đôi lứa trước đám hội của dân chúng bản mường. Do đó, để khôi phục, bảo tồn hội Hạn Khuống xã Nghĩa An (thị xã Nghĩa Lộ) đã tổ chức trình diễn, phục dựng nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái gắn phát triển du lịch ở địa phương.

Đến Mường Lò - Nghĩa Lộ vùng đất giàu truyền thống văn hóa, du khách sẽ được hòa mình vào điệu xòe bất tận, ẩm thực đặc sắc riêng có của đồng bào người Thái. Đặc biệt trong các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo của họ là Hạn Khuống. Theo Nghệ nhân Ưu tú Điêu Thị Xiêng ở xã Nghĩa An chia sẻ: "Hạn Khuống là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng của bà con dân tộc Thái; nơi bàn bạc, trao đổi công việc của mỗi thành viên trong gia đình; nơi nam thanh, nữ tú đến tìm hiểu nhau, bày tỏ tình yêu đôi lứa. Đồng thời Hạn Khuống cũng giáo dục truyền thống, trách nhiệm cho các thế hệ trong cộng đồng duy trì, phát huy bản sắc văn hóa đồng bào dân tộc Thái ở Nghĩa Lộ”.


Theo tiếng Thái, "Hạn”có nghĩa là tre, nứa và "Khuống” là sân, đất trong bản. Hạn Khuống có nghĩa là một cái sàn bằng tre, nứa dựng lên ở sân đất ngoài trời. Sàn được làm bằng những cây tre to ghép lại, dài khoảng 6 mét, rộng 4 mét và cao khoảng hơn 1 mét, xung quanh có những chấn song đan hình mắt cáo, có một cửa ra vào, lên xuống bằng cầu thang và có từ 3 đến 5 bậc. Ở giữa sàn có một bếp lửa, cạnh bếp lửa người ta dựng cây vũ trụ, tiếng Thái gọi là cây "Lắc say”. Cây này giống như cây nêu ngày Tết.

Người tham gia Hạn Khuống phải làm sàn thật chắc bởi trên sàn còn bày đủ thứ đồ cho trai làng, gái bản trổ tài khéo tay như: Vòng quay, khéo sợi, đan lát, thêu thùa… Số lượng trai gái tham gia Hạn Khuống không giới hạn, thường thì có khoảng từ 7 - 10 đôi. Các cô gái Thái duyên dáng trong trang phục váy áo cỏm truyền thống, vấn tóc đẹp, đội khăn piêu. Còn các chàng trai tay cầm nhạc cụ để đệm cho những câu khắp tình tứ lúc giao duyên. Khi ánh sáng của bếp lửa bùng lên thì cũng là lúc bắt đầu đêm Hạn Khuống.

Trong buổi sinh hoạt, nhóm các cô gái lên sàn rồi rút thang để trên sàn, sau đó cô "Tổn Khuống” được ví như cô trưởng nhóm, bắt đầu nhóm lửa rồi đặt chiếc xa quay sợi, lưng dựa vào cây "Lắc say” chính giữa sàn ngồi quay sợi, các cô khác chia nhau ngồi cạnh để kéo sợi hay thêu thùa, may vá… Ngọn lửa Hạn Khuống cháy sáng rực cả một góc bản làm cây "Lắc say” càng thêm lung linh nhiều màu sắc.

Hạn Khuống không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn là địa chỉ hàm chứa các giá trị văn hóa, xã hội, nghệ thuật, giáo dục sâu sắc, phản ánh rõ nét đời sống tinh thần, nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc của dân tộc Thái. Nghệ nhân Ưu tú Điêu Thị Xiêng cho biết thêm: "Ở Hạn Khuống, lối hát giao duyên là lối hát chủ đạo, còn gọi là "Khắp Báo Xao”. Các chàng trai người Thái phải hát khắp đối đáp với các cô gái cho đến khi được họ đồng ý cho lên sàn Hạn Khuống.

Các câu khắp xin lên sàn với những câu từ trêu ghẹo tình tứ, tế nhị nhưng đậm chất nhân văn như: "Ở xa trông cô gái đẹp cũng như thấy ánh sáng, anh thấy có áo đẹp muốn mặc thử, thấy vũng nước anh muốn thử nông sâu, thấy em làm sàn Khuống đẹp thì muốn lên chơi”. Các cô gái đáp lại với những câu khắp từ chối chưa dám hẹn hò, sợ chàng trai đã có vợ, đã có người yêu: "Ví như anh là đồng bạc, đồng vàng từ nơi nào bay đến, áo ai phơi ở dưới xào bay tới, bay đến nơi đây hay là anh đi lạc đường? Anh muốn đi đằng nương nhưng lạc về đằng ruộng, nếu chỉ đến trêu em thì đừng đến…”.

Họ cứ hát như vậy cho đến khi người con trai khẳng định rằng mình chưa có vợ và chiếm được lòng tin cho người con gái thì người con gái mới thả thang cho người con trai lên sàn Hạn Khuống".

Khi được lên sàn Hạn Khuống, các chàng trai bắt đầu tìm đến cô gái mình thích và mong muốn được kết duyên. Họ hát đối đáp với nhau bày tỏ tình cảm. Tuy nhiên, chàng trai muốn làm một điều gì thì đều phải hát khắp xin được sự cho phép của cô gái. Ví như, muốn ngồi thì phải hát xin ghế, muốn uống nước phải hát xin nước, muốn hút thuốc phải hát xin điếu… Rồi họ tìm hiểu tài nghệ của nhau qua việc làm khăn, thêu thùa, đan lát, thổi khèn, thổi sáo, đan lưới… 

Việc lưu truyền lại những kinh nghiệm tổ chức Hạn Khuống còn hạn chế. Những người am hiểu về Hạn Khuống ngày một hiếm. Cơ bản Hạn Khuống chỉ lưu truyền miệng trong cộng đồng, còn nội dung thì chưa được ghi lại bằng văn bản, việc tái hiện lại có nhiều yếu tố sân khấu hóa, chưa bảo đảm được nét nguyên sơ.

Hiện, rất ít người biết hát và thể hiện đúng điệu hát đối đáp trong Hạn Khuống. Nếu không được bảo tồn, gìn giữ thì hội Hạn Khuống sẽ bị thất truyền, mai một theo thời gian. Hiểu rõ những giá trị và nguy cơ mai một từ thực tế của sinh hoạt văn hóa này, xã Nghĩa An đã quan tâm khôi phục và bảo tồn Hạn Khuống, khuyến khích các già làng, nghệ nhân, người am hiểu về Hạn Khuống tham gia nghiên cứu, xây dựng kịch bản của loại hình sinh hoạt văn hóa này.

Chị Lường Thị Hoàn - Chủ tịch Hội phụ nữ xã Nghĩa An cho biết: "Hàng năm, xã luôn quan tâm tổ chức lễ hội Hạn Khuống vào dịp đầu xuân, phục vụ nhu cầu vui tết, chơi xuân của cộng đồng. Qua đó giúp nhiều người trẻ tìm hiểu ý nghĩa Hạn Khuống và có trách nhiệm bảo tồn gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc Thái”.

Với việc tổ chức, phục dựng hội Hạn Khuống ở xã Nghĩa An đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá giới thiệu tới nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã, thị xã tới các tỉnh bạn và du khách gần xa về những nét văn hoá đặc sắc của mảnh đất, con người Nghĩa Lộ. Qua đó tạo động lực để xã Nghĩa An tiếp tục bảo tồn, khôi phục văn hoá của đồng bào dân tộc Thái, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hoá tinh thần, phát huy những giá trị tinh hoa hướng tới mục tiêu xây dựng thị xã Nghĩa Lộ trở thành thị xã văn hoá - du lịch.

Bùi Minh

Tags Nghĩa Lộ Hạn Khuống lễ hội bảo tồn

Các tin khác
Văn hóa các dân tộc huyện Yên Bình đa dạng, độc đáo là nguồn tư liệu quý để các nghệ sĩ sáng tác.

Thời gian qua, nhận thức sâu sắc vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí tự lực tự cường, Huyện ủy Yên Bình đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nhiều hoạt động văn học, nghệ thuật sáng tạo, góp phần quan trọng trong phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Nội dung quy hoạch di tích phải nêu rõ định hướng bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; định hướng phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch bền vững - Ảnh: Di tích Hoàng thành Thăng Long

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang dự thảo Nghị định quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch khảo cổ; quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; dự án đầu tư, xây dựng công trình, sửa chữa, cải tạo, xây dựng nhà ở riêng lẻ nằm trong, nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; dự án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc hạ tầng kỹ thuật và trưng bày bảo tàng công lập.

Nghi thức tế Đền truyền thống được thực hiện tại Lễ hội Đền Thác Bà

Lễ hội Đền Thác Bà, huyện Yên Bình sẽ diễn ra trong 2 ngày từ 5-6/2, tại sân Đền Thác Bà và khu vực nhà văn hoá ngoài trời, sân vận động thể thao của Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Bà.

Nghệ nhân Đặng Hữu Thanh tỉ mỉ vẽ từng đường nét của tranh thờ.

Nghề vẽ tranh thờ là nét văn hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn tâm linh, truyền tải ước vọng may mắn, bình an của đồng bào dân tộc Dao Yên Bái. Được truyền qua bao thế hệ, nghề vẽ tranh thờ đã trở thành một phần của tín ngưỡng, là biểu tượng của sự kính trọng với tổ tiên, thần linh không thể thiếu. Với niềm say mê, tâm huyết trong việc duy trì, phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc, Nghệ nhân Đặng Hữu Thanh ở xã Đại Sơn, huyện Văn Yên đã dày công học tập, nghiên cứu, truyền dạy nghề vẽ tranh thờ, góp phần làm nên sức sống văn hóa trong nhịp sống hiện đại.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục