Nhạc cụ của người Thái Tây Bắc

  • Cập nhật: Thứ sáu, 30/11/2012 | 2:35:32 PM

YBĐT - Nhạc cụ của người Thái Tây Bắc cơ bản gồm bộ hơi: các loại pí – (sáo dọc), khèn bè; bộ dây: đàn tính, nhị và bộ gõ: trống, chiêng, chũm chọe, quả nhạc…; trong đó chủ đạo là bộ gõ và bộ hơi.

Chiếc Pí dọc trong bộ nhạc cụ của người Thái Mường Lò.
Chiếc Pí dọc trong bộ nhạc cụ của người Thái Mường Lò.

Nhạc cụ gõ của người Thái Tây Bắc gồm trống, chiêng, chũm chọe và quả nhạc. Bộ gõ này có vai trò rất quan trọng trong đời sống nghệ thuật và tâm linh. Bộ gõ là vật linh thiêng của mỗi bản, không bao giờ được để mất, không để kẻ thù chiếm đoạt, không được đổi chác mua bán.

Việc chế tác bộ gõ được tiến hành với những bước rất nghiêm ngặt: cúng tế xin phép thần linh, cầu mong thần cho phép, chứng giám và phù hộ rồi tiến hành ở nơi kín đáo, sạch sẽ. Khi chế tác xong phải cử hành lễ tế trang trọng và cất giữ ở nhà sàn hoặc gian thờ ma nhà của trưởng bản hoặc người có chức sắc và chỉ được dùng trong dịp tết hoặc lễ cúng xên bản, xên mường.  Người Thái cho rằng nếu dùng trống chiêng tùy tiện sẽ có hại cho bản mường.

Trống có hai loại "cống" và "cong". Thông thường "cống" hay được dùng trong hội xuân, lễ cúng ma bản mường; còn "cong" dùng khi chủ mường qua đời hoặc khi có giặc, báo động… Tang trống dùng cây gỗ tròn được đục bỏ lõi, thường là gỗ sâng hoặc mít.

“Cống” có tang dài 0,8 - 1m, mặt có đường kính từ 30cm đến 50cm, bịt bằng da trâu bò, âm thành trầm và gần. "Cong" là loại trống dài từ 1,5m đến 3m, mặt bịt da bò, có đường kính từ 50cm đến 70cm, âm thanh trong hơn, vọng rất xa. Khi chế tác tang trống, để có âm thanh như ý, các nghệ nhân cạo nhẵn bên trong và mặt ngoài chứ không dùng sơn.

Chiêng và chũm chọe được chế tác công phu, đặc biệt là rốn chiêng. Để có âm thanh mong muốn, các nghệ nhân pha thêm vào đồng một tỷ lệ vàng theo công thức bí truyền và dùng búa gõ tạo những nốt nhấn. Chiêng có âm thanh trầm được gọi "tô me", tức là con mái, chiếc có âm thanh cao gọi là "tô po", tức là con trống, chiếc có âm thanh ở khoảng giữa gọi là "tô lụ" tức là con con. Chũm chọe gọi là "xánh", chùm nhạc là "mắc hính".

Chiêng có thể dùng riêng hoặc phối hợp cả ba cái tạo ra một hợp âm độc đáo mà các nhà nghiên cứu cho rằng đậm đà ý nghĩa nhân sinh. Thường là đàn ông đánh trống, đàn bà đánh chiêng, con gái trẻ dùng quả nhạc, trẻ con dùng chũm chọe tạo ra những âm thanh sôi động, lôi cuốn lòng người.

Nghe tiếng trống, chiêng, người ta có thể biết ở bản Thái ấy đang có việc vui hay buồn: nếu tiếng trống nhịp 2/4 theo kiểu 3 tiếng cùng với 7 tiếng, tiếng chiêng gõ trên con mái và con trống rơi vào nhịp mạnh, tiếng của con con rơi vào nhịp nhẹ của trống thì chắc chắn rằng ở đó có hội xòe. Còn khi nghe tiếng "cong" dồn dập 3 tiếng hoặc 5 tiếng là có việc khẩn cấp như: cháy nhà, có lũ bão, có giặc…

Các quả nhạc cùng phụ trợ cho hát và các điệu xòe làm tăng sự vui tươi, sôi động. Bộ gõ nói chung và chiêng trống nói riêng là những nhạc cụ không thể thiếu của người Thái Tây Bắc, góp phần làm cho đời sống nghệ thuật thêm phong phú, đồng thời còn chứa đựng những ý nghĩa tâm linh và nhân sinh cao cả, gửi gắm vào đó cả tình yêu, tinh thần lạc quan tin tưởng vào cuộc sống no ấm, hạnh phúc.

Bộ hơi gồm: “pí pặp”, “pí lè”, “pí ló”, “pí sên”, “pí thiu”, “pí tót”, “pí rạ”, có loại 4 lỗ như “pí thiu”, có loại chỉ có một lỗ như “pí tót”, trong đó “pí pặp” đứng đầu các loại “pí”, là lời của tình yêu: “Nghe “pí pặp” thổi/ Tiếng trầm rơi xuống suối/ Đàn cá quên đớp mồi/ Tiếng bổng va chóp núi/ Mây quên bay về trời…” – (dân ca Thái).

“pí thiu” có 4 lỗ tương ứng với những nốt: đô, pha, son, la – (giọng thứ), xưa “pí thiu” dùng để gọi bạn tình mỗi đêm chọc sàn, khi buồn âm thanh của “pí thiu” xa vắng, thổn thức, mênh mang đầy nội tâm. Những đêm thanh vắng nghe tiếng “pí thiu” người già thở dài lần đến hũ rượu nhớ lại tuổi thanh xuân. Còn “pí tót” người thổi phải có kỹ thuật điều khiển bằng hơi kết hợp với sự bấm ngón điêu luyện.

 

Một số nhạc cụ của người Thái Mường Lò.

Những nghệ nhân có kỹ thuật cao siêu có thể lồng tiếng nói trong tiếng phát ra của “pí tót” khiến người nghe có thể cảm nhận được cái “thần” điệu nhạc cùng nội tâm của người thổi. Âm thanh của “pí tót” làm người nghe liên tưởng tới những mất mát, khổ đau, thiệt thòi của số phận. Khèn bè có một vị trí vô cùng quan trọng, là nhạc cụ chủ đạo và là biểu tượng độc đáo của nền âm nhạc Thái.

Với 14 ống nứa tép – “mạy pao” được ghép lại thành từng đôi trên một bầu bằng gỗ thừng mực “mạy mụk”, nghệ nhân dùi 12 lỗ bấm đối xứng và khoét các lỗ thoát hơi trên các ống nứa với các kích cỡ khác nhau ở các vị trí thích hợp. Một trong các kỹ thuật khó nhất là xử lý các lam đồng, từ độ dầy, độ dài tới độ bóng bề mặt.

Với năm cung và một quãng tám, khèn bè có thể diễn tả được hầu hết các điệu dân ca, nhạc hiện đại và làm nền cho các điệu dân vũ và múa hiện đại. Bởi vậy khèn bè luôn có vị trí xứng đáng trong đời sống nghệ thuật của người Thái và cả trong các tiết mục sân khấu. Điều thú vị là ở khèn bè Thái có những âm thanh sóng đôi như: Lả - lá, hai nốt rế, hai nốt son, đồ - đố, phà - phá mà các nghệ nhân gọi là “pò mè” - tức là bố mẹ.

Bởi vậy mỗi khi tiếng khèn bè cất lên nghe da diết sâu lắng như lời tâm tình yêu đương cháy bỏng của những đôi trai gái. Dù đó là điệu “báo xao” – (trai gái), “sài peng” – (tình tự), “lòng tông” – (qua cánh đồng), hay đệm cho các điệu xoè. Triết lý âm dương, sự sinh sôi phát triển của cuộc sống được thể hiện vô cùng tinh tế. Chính vì khả năng biểu cảm phong phú, nên việc chế tác khèn bè rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi một sự khéo léo và trình độ thẩm âm cao.

Chiếc khèn bè không chỉ là nhạc cụ với những âm thanh tuyệt vời mà còn là một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần của tự nhiên và sự sáng tạo cùng tình yêu cao cả của người nghệ sỹ.

Nghe những âm thanh tinh tế của nhạc cụ Thái, người ta như cảm nhận được sự giao hòa của đất trời và vạn vật, ngân rung bay bổng khát vọng một cuộc sống sinh sôi, phát triển, ấm no, hạnh phúc, làm cho tâm hồn người trong sáng hơn, thêm tin yêu vào cuộc sống, hướng mỗi người đến giá trị đích thực của chân - thiện - mỹ.

 Trần Vân Hạc

Các tin khác
Bà Cécile Duvelle phát biểu tại cuộc họp báo.

Việt Nam có cơ hội được vinh danh 2 lần, 1 với hồ sơ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và 2 là bản báo cáo về công tác bảo tồn di sản.

Đại Phật Từ Phụ A Di Đà tại chùa Tòng Lâm Lô Sơn.

Sáng 28-11, tại chùa Tòng Lâm Lô Sơn (thường gọi là chùa Đá Lố, ở thôn Như Xuân, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang, Khánh Hòa), Trung tâm Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng kỷ lục tượng phật cao nhất Việt Nam cho công trình Đại Phật Từ Phụ A Di Đà.

Khách tham quan xem nhân vật Gollum tại Bảo tàng Weta Cave ở Wellington ngày 25-11.

Tối 28-11 đã diễn ra buổi ra mắt Hobbit - tập phim mới của loạt phim Chúa tể những chiếc nhẫn (Lord of the rings) tại thủ đô Wellington (New Zealand) với sự tham dự của khoảng 100.000 người hâm mộ và nhiều diễn viên nổi tiếng.

Hàng ngàn người dân đổ về Ao Bà Om dự lễ hội Ok-Om-Bok vào tối 28/11 tại Trà Vinh.

Tối ngày 28/11 (Rằm tháng Mười âm lịch), hàng ngàn người dân từ khắp nơi đổ về Ao Bà Om (TP.Trà Vinh) cùng dự lễ hội Ok-Om-Bok 2012, một lễ hội có nhiều nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ .

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục