P.V: Ngành nông nghiệp tỉnh đang tập trung đẩy mạnh thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp, nhất là hỗ trợ nông dân thực hiện cấp MSVT cho các cây trồng chủ lực của địa phương. Vậy, xin ông cho biết tầm quan trọng của MSVT?
Ông Nguyễn Xuân Huy: MSVT là mã số định danh cho một vùng trồng trọt nhằm theo dõi và kiểm soát tình hình sản xuất; kiểm soát chất lượng sản phẩm; truy xuất nguồn gốc sản phẩm cây trồng. Vì vậy, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện, có chính sách ưu tiên hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân đăng ký cấp MSVT.
Khi có vùng trồng được cấp mã số, sản phẩm của vùng trồng đó sẽ có điều kiện thuận lợi để đến với các thị trường, đặc biệt đối với xuất khẩu theo đường chính ngạch. Chính vì vậy, MSVT được coi là "tấm vé thông hành” của nông sản. Cũng theo xu thế đó, thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các địa phương tích cực hướng dẫn người dân xây dựng vùng trồng, tổ chức thiết lập các vùng trồng được cấp mã số.
P.V. Xin ông cho biết, những kết quả đạt được trong công tác cấp MSVT trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua?
Ông Nguyễn Xuân Huy: Hoạt động thiết lập, cấp, quản lý và giám sát MSVT mới được triển khai tại tỉnh. Vì vậy, ngành nông nghiệp đã rất tích cực tuyên truyền, tổ chức thực hiện và đến nay đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Cụ thể, năm 2022, ngành đã thiết lập 37 MSVT chè phục vụ xuất khẩu đi các nước như: Mỹ, Ấn Độ, Nga, Đài Loan, Uzbekistan và nhiều nước châu Âu khác với diện tích 294 ha và cấp được 13 MSVT phục vụ tiêu thụ nội địa với diện tích 35 ha. Năm 2023, chúng tôi dự kiến sẽ cấp mã số cho 35 vùng trồng với diện tích trên 450 ha trên các đối tượng cây trồng như: bưởi, thanh long, lúa, rau và một số cây trồng dùng làm dược liệu.
Năm 2022, ngành nông nghiệp Yên Bái đã thiết lập 37 mã số vùng trồng chè phục vụ xuất khẩu đi các nước. (Ảnh: Báo Dân tộc và Phát triển)
Để khuyến khích việc đăng ký cấp MSVT trên địa bàn tỉnh, vừa qua, tại Kỳ họp thứ 10, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 51/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 quy định nội dung, mức hỗ trợ một số nội dung chi sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Trong Nghị quyết có nội dung hỗ trợ chi phí tư vấn, giám sát và gắn mã vùng trồng cho các cá nhân, tổ chức: hỗ trợ tối đa 40 triệu đồng cho vùng trồng phục vụ xuất khẩu; 20 triệu đồng cho vùng trồng phục vụ tiêu thụ nội địa và hỗ trợ truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm chủ lực, tối đa 10 triệu đồng/sản phẩm.
P.V: Việc triển khai MSVT trên địa bàn tỉnh có gặp khó khăn, vướng mắc gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Xuân Huy: Cũng như các hoạt động quản lý sản xuất khác, việc cấp MSVT cũng gặp những khó khăn do quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; khó khăn về sự không đồng nhất trong từng vùng trồng; nhận thức còn khá mơ hồ của người sản xuất về MSVT và lợi ích của nó mang lại. Ngoài ra, khi vùng trồng được cấp mã số thì người sản xuất trực tiếp phải cập nhật thông tin trên cơ sở dữ liệu để quản lý (mùa vụ, các tác động vào vùng trồng, thu hoạch, năng suất...), trong khi kiến thức, trình độ của người sản xuất ở nhiều nơi, nhiều vùng chưa thể làm ngay được.
P.V: Để nhân rộng MSVT phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, xin ông cho biết, ngành nông nghiệp tỉnh sẽ tiếp tục triển khai những giải pháp gì?
Ông Nguyễn Xuân Huy: Những thành tích đã đạt được trong năm 2022 sẽ là bước đệm để ngành triển khai các năm tiếp theo. Với mục tiêu sẽ tập trung thiết lập, cấp, quản lý và giám sát cho các vùng sản xuất chính, các vùng trồng các loại cây trồng được xác định là chủ lực, đặc sản của tỉnh, ngành đưa ra các giải pháp đồng bộ như sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn về lợi ích, quy trình thiết lập, cấp, quản lý và giám sát MSVT cho các cá nhân, tổ chức, chính quyền địa phương và cán bộ chuyên môn.
Hai là, tổ chức tập huấn về MSVT cho các đối tượng như: cán bộ quản lý, chính quyền địa phương, cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ tại cơ sở; các tổ chức, cá nhân tổ chức sản xuất và trực tiếp làm việc tại các vùng trồng.
Ba là, định kỳ hàng năm xây dựng kế hoạch thiết lập, cấp, quản lý và giám sát MSVT trên cơ sở tổng hợp nhu cầu của các địa phương. Thường xuyên đánh giá, tổng kết để đưa ra các giải pháp thực hiện hiệu quả nhất.
Bốn là, tập trung hỗ trợ, thiết lập, cấp mã số cho các vùng trồng tại các xã phấn đấu hoàn thiện các tiêu chí đạt xã nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Đồng thời, tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đăng ký cấp MSVT.
P.V: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Văn Thông (thực hiện)