Mức thu thuế tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người
Hiện thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong 9 loại thuế của Việt Nam, đóng góp hơn 198.000 tỷ đồng trong tổng thu hơn 1,9 triệu tỷ đồng (ước tính) năm 2024, chiếm khoảng 10% trên tổng thu.
So sánh tốc độ tăng thu thuế với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và lạm phát, PGS.TS. Phan Hữu Nghị, Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho biết, dữ liệu thuế TNCN và thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2020 - 2024 cho thấy mức thu thuế tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người.
Theo số liệu thống kê, chỉ trong vòng 4 năm, tổng thu thuế TNCN đã tăng khoảng 80%, gần như gấp đôi. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính hợp lý của chính sách thuế hiện hành, đặc biệt là mối quan hệ giữa tốc độ tăng số thu thuế và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người.
Cụ thể, tổng thu từ thuế TNCN giai đoạn 2020 - 2024 tăng 72%, từ 115.000 tỷ đồng lên 19.000 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người trong cùng kỳ tăng 30,2%, từ 3.548 USD/năm lên 4.622 USD/năm. Lạm phát trung bình hàng năm dao động từ 0,81% - 4,16%, với mức cao nhất vào năm 2023 (4,16%) và thấp nhất vào năm 2021 (0,81%).
Khi tính đến yếu tố lạm phát, mức tăng thực tế của thu nhập bình quân đầu người có thể thấp hơn so với con số danh nghĩa. Cụ thể: Giai đoạn 2020 - 2024, tổng lạm phát cộng dồn khoảng 12,58% nếu so với kỳ gốc 2020 mức tăng khoảng 28%. Điều này có nghĩa là dù thu nhập bình quân đầu người có tăng tới 30,2% nhưng sức mua thực tế có thể không tăng tương ứng.
"Đáng chú ý, trong giai đoạn này, tốc độ tăng thuế thu nhập cá nhân không chỉ nhanh hơn thu nhập bình quân đầu người mà còn không phản ánh đúng sự thay đổi của thu nhập thực. Do vậy, cần xem xét lại mức giảm trừ gia cảnh cũng như biểu thuế lũy tiến để bảo đảm chính sách thuế công bằng hơn, phù hợp thực tế kinh tế và mức sống của người lao động Việt Nam”, PGS.TS Phan Hữu Nghị nêu quan điểm.
PGS. TS. Lê Xuân Trường, Trưởng Khoa Thuế và Hải quan (Học viện Tài chính) cũng cho biết, khi so sánh mức giảm trừ bản thân của Việt Nam với GDP bình quân đầu người thì mức giảm trừ bản thân của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cụ thể, so với Indonesia, một nước trong khu vực Đông Nam Á và ở trình độ phát triển tương đương (GDP đầu người của Indonesia năm 2024 là 4.981 USD, còn GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2024 là 4.700 USD) thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế của Việt Nam cao hơn khoảng 50%.
Theo PGS.TS. Lê Xuân Trường, giảm trừ gia cảnh là số tiền trừ vào thu nhập chịu thuế TNCN khi xác định thu nhập tính thuế dựa trên hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế. Theo thông lệ các nước, giảm trừ gia cảnh thường được áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công hoặc/và thu nhập từ kinh doanh của cá nhân cư trú. Đối với những nước đánh thuế TNCN trên tổng thu nhập thì giảm trừ gia cảnh được xác định khi xác định thu nhập tính thuế đối với tổng thu nhập.
"Quy định giảm trừ xuất phát từ quan điểm đánh thuế TNCN phải đảm bảo sau khi nộp thuế, người nộp thuế có thu nhập để trang trải cuộc sống ở mức trung bình của xã hội. Điều này có nghĩa là, xác định mức giảm trừ sao cho sau khi nộp thuế cho nhà nước thì người nộp thuế đảm bảo cuộc sống ở mức cần thiết trung bình xã hội. Từ đó, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của dân cư và đảm bảo đời sống cho người nộp thuế”, PGS.TS. Lê Xuân Trường cho hay.
Cân nhắc điều chỉnh ngưỡng đánh thuế lên mức 20 - 25 triệu đồng/tháng
Phân tích thêm về khía cạnh này, PGS.TS. Phan Hữu Nghị cho rằng, khấu trừ thuế là một vấn đề quan trọng trong hệ thống thuế TNCN, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số đối tượng nộp thuế và số thuế phải nộp.
Hiện nay, khi xem xét thu nhập chịu thuế, cần tính đến chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập, bao gồm cả chi phí sinh hoạt hàng ngày (đi lại, ăn uống, tái sản xuất sức lao động) và chi phí từ quá khứ như chi phí học hành, đào tạo...để có công việc và thu nhập ngày hôm nay. Tuy nhiên, hệ thống thuế hiện hành có thể chưa phản ánh đầy đủ những yếu tố này, dẫn đến việc đánh thuế chưa thực sự công bằng đối với người lao động.
"Hiện mức giảm trừ gia cảnh đang áp dụng thống nhất trên toàn quốc, bất kể sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các tỉnh, thành. Điều này dẫn đến bất cập khi chi phí sinh hoạt ở Hà Nội hay TP.HCM cao hơn đáng kể so với các tỉnh khác, nhưng người dân ở đây vẫn chỉ được hưởng mức giảm trừ giống nhau”, PGS.TS. Phan Hữu Nghị nói.
Do đó, ông Nghị cho rằng, cần có số liệu về phổ thu nhập của người lao động. Theo ước tính hiện nay, nhóm thu nhập từ 18 - 23 triệu đồng/tháng (8.400$ – 10.500$/năm) đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lực lượng lao động. Khi xây dựng chính sách thuế, cần xác định mức thu nhập nào được coi là cao để bắt đầu áp thuế.
"Nếu xác định sai ngưỡng thu nhập cao, có thể dẫn đến việc người lao động thu nhập trung bình, chiếm phần lớn đối tượng lao động cũng phải chịu thuế suất cao, gây áp lực tài chính lớn”, PGS.TS. Phan Hữu Nghị thẳng thắn, đồng thời cho rằng, nếu có số liệu thống kê về phổ thu nhập của người lao động nên đánh thuế ở sau mức thu nhập tập trung số người nhiều nhất.
"Mức thu nhập bị đánh thuế cao nên cân nhắc được điều chỉnh từ 20 - 25 triệu đồng/tháng để phản ánh đúng thực trạng thu nhập và tránh đánh thuế nặng vào nhóm thu nhập trung lưu, tạo sự ổn định theo thời gian bên cạnh tập trung quản lý nhóm siêu giàu”, PGS.TS. Phan Hữu Nghị đề xuất.
Liên quan đến mức thuế suất tính thuế TNCN hiện áp dụng từ 5% đến 35% với 7 bậc thuế khác nhau, ông Nghị cho rằng, các bậc thuế đang quá dày và biên độ giữa các bậc quá hẹp, khiến mức thuế suất và số thuế tăng cao ngay cả khi thu nhập chỉ tăng nhẹ.
"Điều này dẫn đến tình trạng người có thu nhập tăng trung bình cũng nhanh chóng bị đẩy vào nhóm chịu thuế cao, tạo ra áp lực tài chính lớn và giảm động lực lao động”, ông Nghị chỉ rõ.
PGS.TS. Phan Hữu Nghị cho rằng, phương án cải cách hợp lý là điều chỉnh khoảng cách giữa các bậc. Việc giãn khoảng cách giữa các bậc thuế theo hệ số hợp lý (ví dụ hệ số 2) sẽ giúp hệ thống thuế trở nên ổn định, độ mở cao, tạo động lực tăng thu nhập, tránh tình trạng người lao động có thu nhập trung bình vẫn phải chịu thuế suất cao một cách bất hợp lý.
"Số lượng bậc thuế có thể giảm từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, giúp đơn giản hóa hệ thống tính thuế mà vẫn đảm bảo nguồn thu hợp lý cho ngân sách Nhà nước. Điều này không chỉ tạo ra sự công bằng hơn giữa các nhóm thu nhập mà còn khuyến khích người lao động gia tăng thu nhập mà không lo bị đánh thuế quá mức”, PGS.TS. Phan Hữu Nghị khuyến nghị.
(Theo VOV)