Trong thời gian trở lại đây, nhiều nơi trên cả nước nhất là Hà Giang xuất hiện sạt lở gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Theo thống kê, từ đầu năm 2024 đến nay, thiên tai khiến 68 người chết, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2023.
Liên quan đến vấn đề này, TS. Nguyễn Quốc Khánh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cho biết, nguyên nhân gây sạt lở đất đá ở khu vực miền núi chủ yếu do mưa lớn, đặc biệt trong mùa gió mùa từ tháng 5 đến tháng 10. Các yếu tố như độ dốc lớn, phá rừng, sử dụng đất cũng như điều kiện địa chất góp phần làm cho các khu vực dễ bị sạt lở đất.
Các hoạt động của con người như khai thác khoáng sản, xây dựng đường sá và cắt dốc không đúng cách cũng làm trầm trọng thêm nguy cơ sạt lở đất. Cũng do đặc điểm địa lý, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu gió mùa với cường độ mưa lớn trong mùa mưa, sạt lở đất đá ở khu vực miền núi là một trong những thiên tai thường xuyên xảy ra tại các tỉnh miền núi phía Bắc như: Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La rất dễ xảy ra sạt lở đất đá do địa hình hiểm trở và mưa lớn; Các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cũng thường xuyên xảy ra sạt lở đất do có độ dốc lớn và mưa lớn.
Để giảm thiểu tình trạng sạt lở đất đá và thiệt hại, theo TS. Nguyễn Quốc Khánh, đã có nhiều giải pháp được triển khai, như tăng cường các hệ thống cảnh báo sớm, tiến hành khảo sát địa chất, lập bản đồ các khu vực dễ bị sạt lở đất và thực hiện các quy định về quy hoạch sử dụng đất để kiểm soát việc xây dựng ở các khu vực có nguy cơ cao. Ngoài ra, việc thúc đẩy trồng rừng, tái trồng rừng và kiểm soát xói mòn đất cũng là các giải pháp quan trọng đã được triển khai.
Tuy nhiên, sạt lở đất đá ở mỗi khu vực có những đặc thù và nguyên nhân khác nhau, nhìn chung là do mưa lớn kết hợp với điều kiện địa hình và tự nhiên của địa phương. Trong số các giải pháp nêu trên, việc phòng chống và giảm thiểu sạt lở đất đá dựa vào tự nhiên là giải pháp thực tế có tính khả thi cao và bền vững bởi giải pháp này chính là cách tiếp cận mà con người có thể tham gia trước hoặc sau khi thảm họa xảy ra, nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng ứng phó và giảm thiểu thiệt hại. Thông qua việc bảo tồn, cải thiện và sử dụng bền vững hệ sinh thái và các dịch vụ, ý tưởng về các giải pháp dựa vào thiên nhiên đã được đánh giá là một cách tiếp cận phù hợp nhằm cải thiện khả năng phục hồi sinh thái xã hội, giảm tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ các hệ sinh thái và đa dạng sinh học, và nâng cao sinh kế.
Các giải pháp phòng chống sạt lở đất dựa vào tự nhiên liên quan đến việc sử dụng các phương pháp sinh thái và thân thiện với môi trường để giảm nguy cơ sạt lở đất. Trong cách tiếp cận dựa vào tự nhiên, các kỹ thuật môi trường, sinh học và trồng rừng là những kỹ thuật chính. Trong đó, giải pháp tăng cường thảm thực vật phù hợp là giải pháp chính, kết hợp với các kỹ thuật sinh học sẽ gia tăng kết dính đất và giảm nguy cơ sạt lở đất đá. Cụ thể, một số nhóm giải pháp dựa vào tự nhiên phổ biến để phòng chống sạt lở đất có thể kể đến như: Trồng rừng và tái trồng rừng, quản lý thảm thực vật, xây dựng ruộng bậc thang, áp dụng kỹ thuật sinh học đất, quản lý và sử dụng hệ thống thoát nước, lắp đặt các biện pháp vật lý như gia cố mái dốc,… Điều quan trọng cần lưu ý là hiệu quả của các giải pháp dựa vào tự nhiên có thể khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của khu vực dễ bị sạt lở đất, bao gồm thành phần đất, khí hậu và địa hình.
"Bản chất của giải pháp này là tăng cường lớp phủ thực vật thông qua việc kết hợp các kỹ thuật lâm – sinh, nghĩa là trồng rừng với lựa chọn các cây trồng có đặc tính sinh học phù hợp cho giảm thiểu sạt lở đất đá. Trên đất trống trước hết cần trồng các cây tiên phong tạo hoàn cảnh rừng, sau đó trồng các cây bản địa phù hợp với thổ những khí hậu tại địa điểm trồng, mỗi địa phương có tập đoàn cây bản địa khác nhau; Loài cây ưu tiên trồng là cây có bộ rễ cọc, ăn sâu xuống lòng đất và có thể bám vào đá mẹ, dẻo dai, có sức chống chịu gió bão, ưu tiên trồng cây bản địa của địa phương", TS. Nguyễn Quốc Khánh chia sẻ.
Đối với khu vực miền núi như Tây Nguyên, cần lựa chọn loại cây trồng phù hợp với tiêu chí cây trồng chống sạt lở như: Có ý nghĩa về thủy văn; Có các đặc điểm sức mạnh của bộ rễ; Có ý nghĩa sinh thái và có giá trị kinh tế. Ngoài ra, còn có các tiêu chí khác để cân nhắc khi chọn loại cây trồng nên là cây bản địa đã thích nghi với điều kiện ở địa phương, vật liệu trồng (cây con, hạt giống…) sẵn có ở địa phương và dễ nhân giống với số lượng lớn, là cây trồng hỗn giao hay thuần loài với giá thành vật liệu trồng phù hợp...
Đối với các mô hình trồng mới như cây công nghiệp, cây ăn quả (Sầu riêng, Bơ, Cà phê, Tiêu...) thì cần tuân thủ nguyên tắc sản xuất và thương mại nông sản không gây mất rừng. Đồng thời, trong công tác quản lý Nhà nước, cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện Luật Lâm nghiệp, Luật Đất đai trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất rừng sang đất cây lâu năm, cây công nghiệp (Sầu riêng, Bơ, Cà phê, Tiêu...); đặc biệt là tại các khu vực có nguy cơ sạt lở đất cao, đất dốc và khu vực triển khai công trình giao thông vận tải, công trình xây dựng,…
Cần phân tích được các nguy cơ, rủi ro do sạt lở để quy hoạch cho phù hợp
Liên quan đến nội dung này, GS.TS Tạ Hòa Phương - Chủ tịch Hội Cổ sinh - Địa tầng Việt Nam cho rằng, những vùng núi càng cao sẽ càng có nguy cơ xảy ra thiên tai và sạt lở. Bản chất là do sau những trận mưa liên tiếp nhiều ngày, nước sẽ làm cho các tầng đất đá bồi giảm tác dụng ma sát (không phải tầng đá nguyên sinh). Dưới tác dụng của trọng lực thì những loại đất đá này sẽ có nguy cơ đổ ập xuống bất cứ lúc nào. Đây cũng chính là nguồn gốc của những sự trượt lở hay lũ được hình thành.
Khu vực xảy ra sạt lở nghiêm trọng ở Hà Giang vừa qua thường xuyên xảy ra tình trạng lũ quét, lũ ống… Đây là những hiện tượng thiên nhiên gặp thiên tai mà việc dự báo là không dễ dàng. Tuy nhiên, nếu lập ra được bản đồ thiên tai thì sẽ dễ dàng hơn trong quá trình dự báo, chỉ điểm những khu vực nguy cơ. Từ đó cảnh báo đến người dân đang sinh sống hoặc đi qua các vùng nguy cơ này.
Theo GS. TS Tạ Hòa Phương, vai trò của chính quyền địa phương trong vấn đề này là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, lực lượng chức năng cũng cần kết hợp với các nhà khoa học, nhà nghiên cứu để đưa ra các cảnh báo thiên tai kịp thời, hiệu quả.
"Nhu cầu dân sinh, chỗ ở vẫn đang là vấn đề thường trực của người dân. Họ vẫn sẽ tìm đến những khu vực có thể phù hợp với cuộc sống và công việc của họ như trồng trọt, mùa màng thuận lợi để sinh sống và sản xuất. Tuy nhiên, không phải vùng nào cũng an toàn tuyệt đối về mặt thiên nhiên và nhiều người vẫn chấp nhận cuộc sống tại những khu vực này để mưu sinh. Để đảm bảo an toàn khi sống tại những vùng thường xuyên xảy ra sạt lở rất cần một hệ thống phân tích được các nguy cơ, rủi ro trên cơ sở lập bản đồ thiên tai, quy hoạch vùng nguy hiểm. Từ đó đưa bản đồ này xuống từng địa phương để có thể kịp thời cảnh báo người dân. Thậm chí cũng cần phải có những biện pháp cưỡng chế bắt buộc, di dời người dân ra khỏi những vùng nguy hiểm. Kèm theo đó là những chính sách an sinh phù hợp để những người dân an cư tại nơi ở mới", GS. TS Tạ Hòa Phương nhấn mạnh.
(Theo VOV)