Dưới đây là tổng hợp kết quả vận chuyển của Đoàn 125 trong giai đoạn từ 1962 đến 1975
VẬN CHUYỂN TRỰC TIẾP VÀO CHIẾN TRƯỜNG (1962-1975)
1. Năm 1962: Tổ chức đi 5 chuyến thành công cả 5 chuyến
- 1 chuyến đi trinh sát do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách;
- 4 chuyến tàu vỏ gỗ (Phương Đông 1, 2, 3, 4) vào bến Vàm Lũng, Cà Mau.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 111,810 tấn.
2. Năm 1963: Tổ chức đi 24 chuyến
22 chuyến thành công:
- 10 chuyến tàu vỏ sắt vào bến Cà Mau;
- 5 chuyến tàu vỏ sắt vào bến mới Bến Tre;
- 6 chuyến tàu vỏ sắt vào bến mới Trà Vinh;
- 1 chuyến tàu vỏ gỗ số 41 vào bến mới Bà Rịa (tàu ở lại Bến Tre).
2 chuyến không thành công:
- 1 chuyến tàu số 56 (chuyến thứ 19) trên đường chở hàng vào bị mắc cạn ở quần đảo Hoàng Sa, phải phá tàu sau khi lấy xong hàng;
- 1 chuyến tàu Bình Minh do chở quá tải nguy cơ bị chìm, Sở chỉ huy phải điều tàu Hải quân ra cứu kéo quay trở về;
- Chiếc tàu số 43 (chuyến thứ 2) đưa hàng vào giao cho bến xong trên đường trở ra Bắc bị mắc cạn ở quần đảo Hoàng Sa, phải phá tàu.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 1.318,166 tấn.
3. Năm1964: Tổ chức đi 52 chuyến, thành công cả 52 chuyến
- 28 chuyến tàu vỏ sắt vào bến ở Cà Mau;
- 12 chuyến tàu vỏ sắt vào bến ở Bến Tre (có 1 chuyến tàu 67 bị mắc cạn khi vào bến Cồn Lợi ở Bến Tre, ta tổ chức lấy xong hàng, hủy tàu);
- 8 chuyến tàu vỏ sắt vào bến ở Trà Vinh;
- 1 chuyến tàu sắt vào bến ở Bà Rịa;
- 1 chuyến tàu vỏ gỗ (401) vào bến mới Lộ Giao ở Bình Định (tàu bị mắc cạn, sau khi lấy xong hàng phải huỷ);
- 2 chuyến tàu sắt vào bến mới Vũng Rô ở Phú Yên.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 2.971,126 tấn.
4. Năm 1965: Tổ chức đi 18 chuyến
15 chuyến thành công:
- 10 chuyến tàu vỏ sắt vào bến ở Cà Mau;
- 2 chuyến tàu vỏ sắt vào bến ở Bến Tre;
- 1 chuyến tàu sắt vào bến ở Bà Rịa;
- 2 chuyến tàu sắt vào bến Vũng Rô ở Phú Yên (1 chuyến của tàu C143 bị lộ phải chiến đấu với địch. Ta huỷ tàu nhưng không huỷ hết để địch lấy mất vũ khí, hàng hoá).
3 chuyến không thành công:
- 3 chuyến tàu trên đường chở hàng vào gặp địch không thể đi tiếp được phải quay về.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 810,76 tấn.
5. Năm 1966: Tổ chức đi 8 chuyến
2 chuyến thành công:
- 2 chuyến tàu sắt vào bến ở Cà Mau ( có tàu C69 phải ở lại bến).
6 chuyến không thành công:
- 2 chuyến tàu gặp địch xảy ra chiến đấu và bị mắc cạn ta tự huỷ tàu (C100 ở Cà Mau, C41 ở Đức Phổ, Quảng Ngãi);
- 1 chuyến tàu gặp địch xảy ra chiến đấu, bị mắc cạn, ta huỷ tàu không được để địch cướp mất tàu và vũ khí ( tàu C187 vào bến Trà Vinh);
- 3 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch giám sát, theo dõi không thể đi được phải quay về.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 123 tấn.
6. Năm1967: Tổ chức đi 5 chuyến đều không thành công
- 1 chuyến tàu gặp địch phải chiến đấu và huỷ tàu (tàu C43 ở Sa Kỳ, Quảng Ngãi);
- 1 chuyến tàu gặp địch xảy ra chiến đấu, ta huỷ tàu nhưng bộc phá không nổ, bị địch cướp mất tàu và hàng (tàu C198 ở Ba Làng An, Đức Phổ, Quảng Ngãi);
- 3 chuyến tàu trên đường chở hàng vào gặp địch phát hiện, theo dõi chặt chẽ phải quay về.
7.Năm1968: Tổ chức đi 6 chuyến đều không thành công
- 3 chuyến tàu gặp địch xảy ra chiến đấu và huỷ tàu (tàu C235 ở Hòn Hèo, Khánh Hoà; tàu C43B ở Đức Phổ, Quảng Ngãi; tàu C165 ở Cà Mau);
- 3 chuyến tàu trên đường chở hàng vào gặp địch phải quay về.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh cùng với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân ngay sau khi được thành lập.
8. Năm 1969: Tổ chức đi 4 chuyến
2 chuyến thành công:
- 1 chuyến tàu đi trinh sát mở tuyến mới (tàu C42);
- 1 chuyến tàu chở hàng vào bến ở Cà Mau.
2 chuyến không thành công:
- 2 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch phải quay về.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 58,686 tấn.
9. Năm 1970: Tổ chức đi 17 chuyến
6 chuyến thành công:
- 1 chuyến tàu trinh sát mở tuyến mới ( tàu C121);
- 4 chuyến tàu chở hàng vào bến ở Cà Mau;
- 1 chuyến tàu chở hàng vào bến ở Bến Tre.
11 chuyến không thành công:
- 1 chuyến tàu gặp địch phải chiến đấu và huỷ tàu ( tàu C176 );
- 10 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch phải quay về.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 258,823 tấn.
10. Năm 1971: Tổ chức đi 15 chuyến
2 chuyến thành công:
- 2 chuyến tàu đi trinh sát để tìm tuyến mới (tàu C121 và tàu C525).
13 chuyến không thành công:
- 1 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch chiến đấu và huỷ tàu (tàu C69B );
- 12 chuyến tàu chở hàng vào bị địch theo dõi giám sát không thể đi
được phải quay về.
11. Năm 1972: Tổ chức đi 12 chuyến
2 chuyến thành công:
- 1 chuyến tàu đi trinh sát mở luồng Panawan (tàu V621);
- 1 chuyến tàu chở hàng vào Cô Kông thả hàng.
11 chuyến không thành công:
- 1 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch chiến đấu và huỷ tàu (tàu C645);
- 9 chuyến tàu chở hàng vào gặp địch phải quay về.
Số lượng hàng, vũ khí chở vào chi viện chiến trường: 60,291 tấn.
Tổng cộng từ cuối năm 1962-1972, các tàu của Đoàn 125 (ban đầu là Đoàn 759) đã đi 166 lần chuyến; Có 108 chuyến thành công (trong đó có 6 chuyến trinh sát, đạt tỷ lệ 65,06%, chở vào chi viện chiến trường được 5.713 tấn vũ khí, hàng quân sự và gần 300 cán bộ của các cơ quan Trung ương và quân đội vào tăng cường cho chiến trường miền Nam; 58 chuyến không thành công.
VẬN CHUYỂN TẠO CHÂN HÀNG CHO TUYẾN CHI VIỆN CHIẾN LƯỢC 559 CHUYỂN VÀO CHIẾN TRƯỜNG (1967-1975)
Cùng với vận chuyển trực tiếp vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Khu 5, các tàu của Đoàn 125 đã thực hiện hàng ngàn lượt chuyến tàu vận chuyển trên tuyến đường từ Hải Phòng vào Nam Quân khu 4 và vào trực tiếp chiến trường Quảng Trị:
Năm 1967: 440 tấn;
Năm 1968-1969 (VT5 ): 34.776 tấn;
Năm1970: 3.141 tấn;
Năm 1973: 19.549 tấn;
Năm 1974: 25.729 tấn;
3 tháng đầu năm 1975: 7.628 tấn.
Tổng cộng từ năm 1967 đến đầu năm 1975, các tàu của Đoàn 125 đã vận chuyển được 91.263 tấn. Tính từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 3 năm 1975 Đoàn 125 đã chở 97.596 tấn hàng quân sự và gần 300 cán bộ chi viện cho chiến trường.
THAM GIA VẬN CHUYỂN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 các tàu của Đoàn 125 đã thực hiện 173 lần chuyến, chở 17.475 lượt người và 8.721 tấn vũ khí, hàng quân sự vào chiến trường.