Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội
- Cập nhật: Thứ năm, 5/5/2016 | 10:05:19 AM
YBĐT - Cách đây 65 năm, ngày 6 tháng 5 năm 1951, tại Hang Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam - nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ - ngân hàng của Việt Nam.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình (nay là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương) tặng hoa chúc mừng đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Phạm Duy Cường nhân tổ chức thành công Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh.
|
Lần đầu tiên nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ. Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đến nay, có thể chia thành 4 thời kỳ như sau.
Thời kỳ 1951 - 1954: ngày 6/5/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thành lập với các nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc Nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955 - 1975: là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ này là: củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, khôi phục kinh tế chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Thời kỳ 1975 - 1985: là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, nhiệm vụ cụ thể của ngành ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam.
Thời kỳ 1986 đến nay: là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT (tháng 3/1988) với định hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh. Đến tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng và Công ty Tài chính.
Sự ra đời của 2 Pháp lệnh đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) được tái lập và khơi thông; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X (ngày 2/12/1997) và Quốc hội khóa XII thông qua (ngày16/6/2010).
Theo đó, khẳng định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; hoạt động nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Những năm qua, các giải pháp điều hành về tiền tệ và hoạt động ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước tích cực triển khai đồng bộ, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; thị trường tiền tệ, ngoại hối và vàng ổn định; dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng nhanh. Vị thế của đồng tiền Việt Nam được nâng lên, lập lại niềm tin của nhân dân vào điều hành chính sách tiền tệ đất nước. Đó là một thành công căn bản trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Trải qua 65 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, không ngừng lớn mạnh, phát triển, góp phần xứng đáng vào củng cố nền độc lập, dân chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và ngày nay đang là một trong những nhân tố tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước, chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tại tỉnh nhà, ngày 1/6/1951 Ngân hàng Yên Bái đã được thành lập. Từ khi thành lập đến nay, sau những lần sáp nhập, chia tách, chuyển đổi cơ chế hoạt động, Ngân hàng Yên Bái luôn phát triển, đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng đóng góp tích cực vào các thành tựu chung của toàn ngành, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Mạng lưới hoạt động ngân hàng được mở rộng đến các xã, phường với các loại hình Ngân hàng Thương mại Nhà nước, Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng Chính sách xã hội và các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Toàn tỉnh hiện có 7 chi nhánh ngân hàng loại I, 10 chi nhánh loại III, 65 phòng giao dịch, 35 máy rút tiền tự động, 17 QTDND và 180 điểm giao dịch lưu động tại trụ sở UBND các xã, phường, thị trấn của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Tính quy mô và thị trường hoạt động không ngừng được mở rộng; năng lực tài chính, trình độ về quản trị kinh doanh, khả năng cạnh tranh từng bước được tăng cường, đảm bảo hoạt động an toàn, phù hợp với các quy định của pháp luật, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Đến hết năm 2015, tổng nguồn vốn của các chi nhánh ngân hàng, QTDND đạt 13.522 tỷ đồng, tăng gấp 119,6 lần so với năm 1991 (năm đầu tái thành lập tỉnh Yên Bái); tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đạt 11.732 tỷ đồng, tăng gấp 217,2 lần so với năm 1991; tín dụng chính sách xã hội đạt 2.016 tỷ đồng, tăng gấp 9,88 lần so với năm 2003 (năm đầu thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội). Vốn tín dụng ngân hàng trong những năm qua, đã đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn phục vụ phát triển SXKD và đời sống của nhân dân; cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch cơ cấu và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế địa phương trong từng thời kỳ.
Hệ thống thanh toán điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, các dịch vụ tiện ích ngân hàng mới, hiện đại không ngừng được phát triển ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng trong thanh toán chuyển tiền trong nước và quốc tế; thanh toán lương qua tài khoản...
Đến 31/12/2015, toàn tỉnh có 35 máy rút tiền tự động ATM với 135.424 thẻ thanh toán đã phát hành, gấp 14,73 lần so với năm 2007 (năm đầu tiên triển khai thực hiện thanh toán lương), có 40,06% đơn vị thực hiện chuyển lương qua tài khoản từ ngân sách Nhà nước, riêng thành phố Yên Bái tỷ lệ đạt 98,23%. Công tác tổ chức, cán bộ luôn được tăng cường và củng cố; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, được đào tạo và đào tạo lại đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đổi mới của ngành và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Đồng chí Bùi Trung Thu chủ trì một buổi giao ban tháng của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Yên Bái.
Trong quá trình 65 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, từ ngày tái lập tỉnh (năm 1991) đến nay, ngành Ngân hàng Yên Bái đã vinh dự được đón nhận các phần thưởng cao quý: 3 Huân chương Lao động hạng Nhì; 4 Huân chương Lao động hạng Ba cho tập thể và 10 cá nhân; 48 lượt đơn vị tập thể nhận Cờ thi đua xuất sắc của tỉnh, của ngành; 42 lượt đơn vị tập thể, cá nhân nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 03 cá nhân đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc; 158 lượt cá nhân đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp ngành, cấp tỉnh và 962 lượt đơn vị tập thể, cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tặng bằng khen.
Nhân dịp này, thay mặt cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong toàn ngành ngân hàng trên địa bàn, tôi xin trân thành cảm ơn Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và Ngân hàng Trung ương. Cảm ơn các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị, xã hội đã phối hợp, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng hoạt động ngày càng có hiệu quả phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội địa phương, những năm tiếp theo toàn ngành ngân hàng trên địa bàn cần tập trung làm tốt những nhiệm vụ trọng tâm đó là:
Thứ nhất, tạo mọi điều kiện thuận lợi và khuyến khích các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần lớn mở chi nhánh tại Yên Bái phát triển mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch, máy rút tiền tự động ATM, điểm chấp nhận thanh toán thẻ, thành lập và mở rộng mới QTDND, nhằm đa dạng hóa các loại hình tổ chức tín dụng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, tranh thủ nguồn vốn từ Trung ương. Tập trung nguồn vốn cho vay phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, khu vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án trọng điểm và nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng chính sách xã hội. Tăng trưởng tín dụng hàng năm phù hợp mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và các chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương; mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát nợ xấu ở mức an toàn.
Thứ ba, cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển các dịch vụ ngân như phát triển thêm các máy rút tiền tự động ATM, lắp đặt các điểm chấp nhận thẻ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng tiếp cận và hưởng các dịch vụ tiện ích ngân hàng hiện đại.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối trên địa bàn; nâng cao chất lượng công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các chi nhánh ngân hàng, QTDND, đảm bảo an toàn hệ.
Thứ năm, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ mọi mặt, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức ngân hàng, tạo dựng hình ảnh đẹp, ấn tượng cho khách hàng; giảm thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, thời gian thẩm định hồ sơ cho vay, giải ngân cho vay, thanh toán... tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong quan hệ giao dịch tại các chi nhánh ngân hàng, QTDND trên địa bàn góp phần cải thiện và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh.
Nhiệm vụ của toàn ngành những năm tới là rất nặng nề. Song, phát huy truyền thống vẻ vang 65 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của ngành, cán bộ, công chức, viên chức ngành ngân hàng Yên Bái quyết tâm, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ và các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương theo Nghị quyết tỉnh Đảng bộ Yên Bái lần thứ XVIII đã đề ra.
Bùi Trung Thu - Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Yên Bái
Các tin khác
YBĐT - Vài ba năm trở lại đây, cùng với tuyên truyền, vận động, các cơ chế khuyến khích hỗ trợ của tỉnh, của huyện, người dân Văn Yên đã có nhiều cố gắng trong đầu tư vốn liếng, tiếp thu và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào chăm sóc, góp phần thúc đẩy chăn nuôi gia súc phát triển.
YBĐT - Không còn hoài nghi về giá trị kinh tế cũng như việc giữ gìn môi sinh, bảo vệ vốn rừng, chủ trương trồng rừng phòng hộ đa mục đích bằng cây sơn tra ở Mù Cang Chải đã và đang cho thấy hiệu quả kinh tế rõ rệt, hợp với lòng dân, được đồng bào vùng cao trong huyện tích cực hưởng ứng.
YBĐT - Những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) Yên Bái đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (XDNTM). Nhờ vậy, bộ mặt nông thôn đã có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng được xây dựng theo hướng đồng bộ, đời sống người dân không ngừng được nâng cao.
YBĐT - Theo quyết định phê duyệt phương án tiết giảm công suất tiêu thụ điện trên địa bàn tỉnh Yên Bái năm 2016 bao gồm mức tiết giảm 43MW (tương ứng mức tiết giảm công suất 30%), 64MW (tương ứng mức tiết giảm công suất 50%); 90MW (tương ứng mức tiết giảm công suất 70%).