Kỷ niệm 60 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển - Ký ức của người anh hùng!

  • Cập nhật: Thứ năm, 21/10/2021 | 7:30:15 AM

Trong những ngày cả nước hướng về kỷ niệm 60 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961 - 23.10.2021), Anh hùng Lực lượng vũ trang Hồ Đắc Thạnh - nguyên là một thuyền trưởng của đoàn Tàu Không số, tham gia nhiều chuyến tàu chở vũ khí trang bị vào bến Vũng Rô… - kể lại câu chuyện những ngày tháng gian lao mà hào hùng.

Một trong những chiếc tàu không số chuyển vũ khí đạn dược vào Miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh tư liệu
Một trong những chiếc tàu không số chuyển vũ khí đạn dược vào Miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh tư liệu

Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Trung tá Hồ Đắc Thạnh sinh năm 1934, hiện ở Phường 3, TP.Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Về nghỉ hưu tại quê nhà, dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn nhưng ông luôn giữ vững khí chất "Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân”. Ông là một trong những nhân chứng sống, trao truyền lại những trang lịch sử hào hùng của Hải quân Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cho thế hệ hôm nay. 

Ông kể: Tháng 2.1965, tàu mang số hiệu 143 chở hàng vào Vũng Rô (Phú Yên) thì bị địch phát hiện. Quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tập trung một số lượng lớn máy bay tàu chiến đánh phá ác liệt, làm cho việc vận chuyển chi viện cho chiến trường bằng đường biển của ta gặp nhiều khó khăn.



Anh hùng Hồ Đắc Thạnh (người đội mũ kê pi) kể chuyện Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng các đại biểu tháng 12/2019.

Sau một thời gian tổ chức trinh sát nắm tình hình trên biển, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định: "Với chiến trường Nam Bộ thì dùng tàu giả dạng đánh cá, tàu dầu, tàu vận tải nước ngoài đi bung ra xa theo tuyến Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, Malaysia rồi chuyển lên phía Bắc.

Với chiến trường Nam Trung Bộ thì nghiên cứu tìm một đảo chưa có người ở trên quần đảo Trường Sa làm kho chứa hàng rồi dùng ghe đưa dần vào bờ. Riêng Khu V, do địa bàn bờ biển phức tạp, không có kênh rạch, hầu hết là bờ núi đá và bãi cát, để lợi dụng sơ hở, tạo sự bất ngờ, ta chọn bãi ngang làm bến thả hàng”. 

Tàu 41 được chọn thí điểm phương thức vận chuyển này. Đây là một quyết định táo bạo vì từ thời xa xưa, ngư dân miền Trung và Bắc Trung Bộ ở vùng biển bãi ngang chỉ sử dụng một loại phương tiện duy nhất là bè mảng làm bằng những cây luồng ghép lại để khi ra khơi cũng như về bờ không bị sóng biển nhấn chìm. Nay ta lại dùng loại tàu sắt 100 tấn vào bãi ngang thả hàng. Lúc thời tiết bình thường đã rất khó khăn, khi sóng to gió lớn lại càng khó khăn, nguy hiểm gấp bội. 

Bãi ngang là khu vực trống trải nơi trực tiếp chịu những con sóng đập thẳng vào bờ (dân biển gọi là sóng cuốn chiếu) rồi kéo ra hình thành những gân cát ngoài mép nước. Đây là mối đe dọa đối với chân vịt của tàu. 

Để làm quen với địa hình gần giống như nơi tàu vào thả hàng, lực lượng ta đã tập luyện ở bãi ngang cửa Bà Lạt, tỉnh Thái Bình gần 1 tháng. Cùng tập với tàu có một tổ đặc công nước Đoàn 126. Sau khi tàu thả hàng, đánh dấu bằng những phao lưới đánh cá xong quay ra, tổ đặc công cùng với địa phương tổ chức lặn mò vớt hàng lên. 

Vào một đêm tháng 11.1966, Tàu 41 xuất phát tại cảng Bính Động, Hải Phòng. Giờ phút chia tay thật cảm động, một thủ trưởng ôm tôi động viên: "Tháng tới, Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc sẽ họp tại Hà Nội. Trong chuyến đi này, chỉ cần cậu báo tin tàu đến nơi trả hàng xong an toàn là ngoài này đại hội sẽ tuyên dương anh hùng ngay”. Ôi, chuyến đi có tầm quan trọng đến thế ư! 

Chuyến đi vô cùng gian khổ ngay từ ngày đầu. Hết đợt gió mùa này đến đợt gió mùa khác, rồi lại gặp cơn bão Biển Đông. Suốt ba ngày không nấu cơm được bởi sóng chao đảo lắc lư, đành phải ăn lương khô và uống nước lã. Thủy thủ tàu, đặc công nước đi theo tàu say sóng, 

Cán bộ thuyền và nhân viên Hàng hải tác nghiệp tìm hướng đi tránh xa tâm bão, đồng thời để tránh sự phát hiện của ra đa của địch trên đảo Lý Sơn, sĩ quan và thủy thủ đã quyết định táo bạo là cho tàu đi trong Cù Lao Ré lẫn vào tuyến đi của tàu chở hàng Bắc Nam. 

Vật lộn với sóng to, gió lớn, 23 giờ ngày 27.1.1966, tàu vào đúng bãi ngang chỉ định. Tàu dừng lại cách bờ 1 hải lý, Chính trị viên Đặng Văn Thanh dùng đèn pin phát ký hiệu nhận nhau với bờ nhưng không thấy trả lời. Xác định tàu đã vào đúng bến nhưng chưa bắt được tín hiệu nhận nhau, tàu 41 vừa thả hàng vừa cho người bơi vào bờ để liên lạc với bến. 

Gần bờ, sóng càng lớn, tàu bị sóng từ từ nâng lên và đột nhiên đập xuống. Phó thuyền trưởng Hồng Lỳ chỉ huy anh em thả hàng ở hầm bị một cơn sóng đánh văng người rơi xuống hầm hàng 2. Tuy bị đau nhưng anh vẫn chịu đựng, bám sát, đôn đốc anh em thả hàng. 2 giờ sáng thì nhận được tín hiệu của bờ, anh em như được tăng thêm sức mạnh, thả hàng càng nhanh. Ngoài khơi xuất hiện hai ánh đèn tàu. Anh Hồng Lỳ báo cáo: "Hầm hàng số 2 còn khoảng 1/3”. 

Tôi cho anh em dừng thả hàng, đóng hầm hàng chuẩn bị rời khu thả hàng thì một đợt sóng to nâng tàu lên và đập xuống, con tàu rung lên và khựng lại. Đồng chí Nhạn - Máy trưởng - báo cáo: "Chân vịt tàu bị sóng dập cong không cơ động được. Tình thế đã khẩn cấp lắm rồi”. Để bảo đảm an toàn bí mật nơi thả hàng và tránh cho tàu ta rơi vào tay địch, chúng tôi thực hiện phương án cho người lên bờ và phá hủy tàu. Tôi và đồng chí Nhạn ở lại tàu làm nhiệm vụ điểm hỏa bộc phá và rời tàu cuối cùng. 

Bộc phá đã chuẩn bị xong. Trời sáng dần, nhìn rõ hai tàu địch. Tôi hủy tài liệu chuyến đi, mặc áo phao buộc lá cờ Tổ quốc vào cổ, dắt khẩu súng ngắn vào hông và cố định tay lái ở 0°. Tăng hết tốc độ cho tàu chạy hướng ra khơi với ý định nếu tàu địch tiếp cận bắt sống tàu ta thì khối bộc phá 1 tấn ít ra cũng làm chúng thiệt hại. 

Tôi và máy trưởng Nhạn rời tàu bơi vào bờ. Khoảng 30 phút sau, trong tiếng nổ bộc phá phá tàu cùng các loại pháo của tàu địch bắn vào tới tấp, một cơn sóng lớn đã hất tung tôi lên bờ cách mép nước 5m. Lúc đó là 4 giờ 30 phút ngày 28.11.1966, trùng với ngày cách đây 2 năm, 28.11.1960, tàu tôi vào bến Vũng Rô, Phú Yên. 

Tỉnh dậy, tôi tập hợp anh em lại. Thiếu úy Dương Văn Lộc - Phó thuyền trưởng và Chuẩn úy Trần Văn Nhợ - Thủy thủ trưởng - đã vĩnh viễn nằm lại ở bãi ngang. 

Đến hôm nay, tôi còn nhớ như in lời khen của cụ Màu - một ông già 70 tuổi, cả đời làm nghề biển ở bến bãi ngang này: "Thủa đời cha ông tôi chưa bao giờ thấy ai đưa tàu sắt vào bãi ngang trong mùa sóng gió, mưa bão như thế này”.
(Theo LĐO)

Các tin khác
Cán bộ, chiến sĩ tàu 251, Hải đội 512, Lữ đoàn 127, Vùng 5 Hải quân luyện bắn đối không.

“Đoàn tàu không số”, với đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đã đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam như một “huyền thoại”.

Bến K15 - nơi xuất phát của đoàn tàu huyền thoại Không số, khởi đầu của con đường Hồ Chí Minh trên biển

Đoàn 759 là dấu mốc quan trọng đầu tiên của lực lượng vận tải trên biển, đồng thời là dấu mốc mở con đường vận tải chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam.

Những con tàu không số trên đường vào chiến trường. Ảnh tư liệu

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh trên bộ và tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển là nhân tố quan trọng huy động được sức mạnh cả nước vào sự nghiệp kháng chiến, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tàu vận tải cao tốc 235, Đoàn 125 do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đang trên đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, tháng 2/1968. Ảnh: Tư liệu của Mỹ

Theo thống kê của giới sử học quốc tế, nhân loại đã xảy ra hơn 14.500 cuộc chiến tranh nhưng hiếm có cuộc chiến tranh nào lại kéo dài suốt 30 năm như cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam. Cũng chưa có tuyến chi viện nào từ hậu phương ra tiền tuyến mà lại có quy mô lớn, thời gian hoạt động dài, vô cùng gian khổ, ác liệt nhưng lại có hiệu quả cao như hai tuyến chi viện chiến lược của Việt Nam. Đó là tuyến Đường Hồ Chí Minh trên bộ và tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục