Kế thừa hào khí chống giặc, giữ nước trong lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh "ngàn cân treo sợi tóc” bằng một quyết định quan trọng, một quyết định thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946 - Ngày Toàn quốc kháng chiến, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý "không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay Nhân dân, Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Song, chính quyền cách mạng non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ vét, làm cho tiêu điều; sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp vốn nhỏ bé lại đình đốn do chiến tranh tàn phá; tiếp quản nền tài chính trống rỗng; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu…
Ở miền Bắc thì 20 vạn quân Tưởng kéo theo bọn tay sai Việt quốc, Việt cách theo sau hòng cướp lại chính quyền; Ở miền Nam thì quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh của quân Anh chống phá chính quyền cách mạng.
Tình thế cách mạng lúc này mong manh như "ngàn cân treo sợ tóc” phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng lúc: Giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi Nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình, cần thời gian để chuẩn bị lực lượng.
Đúng như Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán, sau khi ký Hiệp định sơ bộ (06/3/1946) và Tạm ước Việt-Pháp (14/9/1946), thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước, liên tiếp gây ra các hoạt động khiêu khích xâm lược ngày càng trắng trợn. Trong hoàn cảnh ấy, Nhân dân ta phải cầm vũ khí tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ những thành quả cách mạng và ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.
"Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào,Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm.”
Cuộc kháng chiến chống Pháp của Nhân dân Việt Nam có ý nghĩa đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà khởi đầu là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó "đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc"[1]. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc "Toàn quốc kháng chiến" chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh.
Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới"[2]. Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý của thời đại ngày nay là một dân tộc nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu theo một đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, thì có đầy đủ khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị hiện đại. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về "Toàn quốc kháng chiến", là thắng lợi của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Tiếp nối hào khí của bài thơ thần "Nam quốc sơn hà” thời Lý, "Hịch tướng sĩ” thời Trần, "Bình Ngô đại cáo” thời Lê Sơ... Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một áng hùng văn bất hủ, chứa đựng những giá trị và tư tưởng mang tính thời đại. Những tư tưởng cơ bản đó cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới của cách mạng.
Kỷ niệm 74 năm "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày đó còn vang vọng, thôi thúc và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vững bước, vững tin vào thắng lợi trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy truyển thống "Toàn quốc kháng chiến” hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực thực hiện 6 nhiệm vụ trong tâm mà Đại hội XIII đã chỉ ra, trong đó có nhiệm vụ thứ ba là: "Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”./.
[1] Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội 1976, tr.55-56.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.12.
(Theo vkscantho.vn)