1. Nguyên nhân
Do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta spp) hay còn gọi là vi khuẩn lam. Khi tảo lam phát triển quá nhanh gây hiện tượng "tảo nở hoa”, tảo tàn và nổi lên tạo thành lớp váng trên mặt ao, thường gọi là váng tảo.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do bón quá nhiều phân chuồng; cho cá ăn dư thừa thức ăn tạo thành mùn bã hữu cơ làm ô nhiễm đáy ao; không thay nước kịp thời; tẩy dọn đáy ao khi bước vào vụ nuôi chưa đảm bảo.
2. Hậu quả
Tảo lam phát triển mạnh, xuất hiện màng nhầy và kết thành từng mảng. Ban đầu chỉ là một đám nhỏ, sau thời gian lan rộng phủ kín một phần diện tích bề mặt ao. Tảo kéo từng tảng theo chiều gió đến góc ao; sau đó, tàn lụi rồi chìm xuống đáy ao và bị phân hủy.
Quá trình phân hủy này sử dụng oxy và sinh ra các khí độc cho cá như NO2, NH3, H2S, xảy ra tình trạng ô nhiễm và thiếu oxy trong ao, gây ngạt cá, đặc biệt cá trắm cỏ (loài ưa môi trường nước sạch); cá giảm ăn sau đó bỏ ăn, thường xuyên nổi trên mặt nước, chậm phát triển, giảm sức đề kháng; từ đó, dễ phát sinh bệnh, thậm chí cá bị chết. Ngoài ra, tảo còn tiết ra độc tố gây độc cho cá, đặc biệt là những loài cá ăn lọc như cá mè trắng, mè hoa.
3. Biện pháp khắc phục
Tảo lam có khả năng phục hồi quần thể tốt nên chúng khó bị tiêu diệt hơn các loài tảo khác. Người nuôi cần thực hiện đồng bộ biện pháp theo các bước sau:
Bước 1: Cắt nguồn dinh dưỡng đưa xuống ao, thay nước, tăng cường oxy: Dừng ngay việc đưa phân xuống ao (như phân vịt, phân lợn, phân gà…) nếu đang sử dụng phân chuồng; giảm 1/2 lượng thức ăn của cá; cần theo dõi, tính toán lượng thức ăn để cá ăn đủ, không để dư thừa dưới đáy ao; dừng cho cá ăn 1 ngày nếu cá có hiện tượng nổi đầu và không ăn; nếu trong ao có nuôi cá trắm cỏ, hàng ngày phải vệ sinh vớt hết cỏ dư thừa lên khỏi ao để tránh thối nước; thay nước từ 30 - 40% lượng nước trong ao, bằng cách rút nước đáy và bổ sung nước tầng mặt, thay 2 - 3 ngày liên tục tùy theo mức độ ô nhiễm của ao.
Nước cấp vào phải đảm bảo từ nguồn nước sạch và được lọc qua túi lọc tại cống cấp nhằm loại bỏ các mầm bệnh, cá tạp từ bên ngoài xâm nhập vào ao nuôi. Dùng quạt khí để tăng cường oxy và đẩy khí độc ra khỏi ao hoặc dùng vòi nước bơm từ trên cao xuống ao cũng có thể tăng cường oxy cho ao. Hằng ngày vệ sinh ao, vớt hết váng tảo đổ xa bờ ao.
Bước 2: Tiêu diệt tảo: Dùng một trong những thuốc khử trùng có thể diệt tảo: BKC, BKA, đồng sunphat (CuSO4.5H2O), TCCA, vôi, dùng 1 - 2 lần, mỗi lần cách nhau 2 - 3 ngày; liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì. Lưu ý, dùng vôi có thể diệt tảo trong thời gian cấp bách nhưng sẽ tạo ra mùi tanh, bẩn, nhất là vào những ngày nắng nóng không nên sử dụng vôi để diệt tảo.
Bước 3: Làm sạch môi trường nước và đáy ao: Sau khi khử trùng 1 - 2 ngày, dùng chế phẩm sinh học có các thành phần: Bacillus, Lactopacillus, Nitrobacter, Nitrosomonas, có chứa những vi khuẩn có thể làm giảm hàm lượng Nitrit (NO2- ), chuyển Nitrit thành nitrat (NO3- ) giảm độc cho cá.
Sau 7 - 10 ngày tiếp tục dùng chế phẩm sinh học EM, Zeo Bacillus, Yucca Zeo (liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì) để phân hủy các xác tảo, tránh hiện tượng tảo lại tái xuất hiện; đồng thời, phân hủy các chất thải, mùn bã hữu cơ ở đáy ao, phân cá, thức ăn dư thừa trong nước, tạo vi sinh vật có lợi, ức chế vi sinh vật có hại. Nếu bùn ao dày, đen có thể dùng chế phẩm vi sinh Zeolite để hấp thụ các khí độc được tốt hơn.
Lưu ý: Nếu chỉ xử lý nước mà không cắt nguồn dinh dưỡng đưa xuống ao thì việc xử lý tảo sẽ không hiệu quả và tốn kém vì tảo có thể phát triển trở lại trong ao.
Bước 4: Phòng bệnh cho cá: Sau khi cá trải qua đợt bị nhiễm độc, thiếu ôxy, sức đề kháng của cá giảm. Vì vậy, cần dùng một số thảo dược như bột tỏi, Ekavarine để phòng bệnh cho cá; đồng thời, tăng sức đề kháng và chống sốc cho cá bằng Vitamin C, B1. Định kỳ mỗi tháng 2 lần sử dụng vôi bột với liều lượng từ 2 - 4 kg/100 m3 nước, hòa đều vào chậu, tạt đều khắp ao để phòng bệnh cho cá. Quản lý môi trường nước, cần phải duy trì độ trong cho nước ao trong suốt quá trình nuôi ở ngưỡng thích hợp từ 30 - 40 cm; nếu độ trong không đảm bảo phải kịp thời xử lý nước ao. Đối với ao nuôi cá thịt cần phải đảm bảo độ sâu từ 1,5 - 2 m để ổn định môi trường nước; nếu dưới 1,5 m các yếu tố môi trường trong ao dễ biến động, có thể làm nước ao bị ô nhiễm trở lại.
Chú ý: Đối với ao cá đã bị nhiễm trùng do nước ô nhiễm, nếu chỉ tiêu diệt tảo và khử trùng nước thì chưa mang lại hiệu quả, mà cần phải kịp thời dùng kháng sinh chữa trị cho cá bị bệnh nhiễm khuẩn.
Nguyễn Thị Xuân (Trung tâm Khuyến nông tỉnh)