Sau hơn nửa thế kỷ từ lần đầu xuất bản, tiểu thuyết "Bất khuất” của nhà văn Lê Phương vừa được tái bản. Nhà xuất bản Lao Động phối hợp với nhà văn Lê Phương và Công đoàn Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam đã có một việc làm thiết thực kỷ niệm lần thứ 90 ngày thành lập Công đoàn của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đọc được tin tái bản cuốn sách trên báo điện tử VOV.VN, bạn Trương Anh Ngọc (Ninh Bình) bày tỏ: Cuốn sách này tôi đọc từ hồi còn trẻ. Chắc lúc đó 16-17 tuổi. Đọc ham mê lắm… Còn nhà văn Triệu Xuân (cựu sinh viên K14 khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội) thì cho biết: Tôi được đọc tiểu thuyết "Bất khuất” của Lê Phương khá sớm, khi sách vừa ra lò. Cuốn sách là phần thưởng của Ty Giáo dục Hải Dương tặng học sinh giỏi thời ấy… Cả hai đều hoan nghênh việc tái bản cuốn tiểu thuyết này.
Cũng phải thôi, xuất bản thành 2 tập vào khoảng 1964 -1965, tiểu thuyết "Bất khuất” đã có cuộc sống hơn nửa thế kỷ. Những người trai trẻ được đọc cuốn sách thời ấy, nay cũng đã xấp xỉ 70 – 80 tuổi. Mấy thế hệ công nhân mỏ, mấy thế hệ bạn đọc đã không còn biết đến tiểu thuyết "Bất khuất” của Lê Phương.
Bởi thế, hôm 20/6/2019 khi được dự cuộc giới thiệu "Bất khuất”, kẻ viết bài này xúc động cầm trên tay cuốn sách (hai tập dồn thành một) in trên giấy tốt, bìa cứng, trang bìa trình bày khá ấn tượng và nhớ hai lần đọc cuốn tiểu thuyết, lần đầu khi còn đang học phổ thông, lần hai khi đang học đại học, phải vào Thư viện Quốc gia trên phố Tràng Thi (Hà Nội) tìm đọc.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, vẫn nhớ tên một vài nhân vật, một vài chi tiết có trong cuốn sách và nhớ đinh ninh một điều: Đây là một cuốn sách hay viết về truyền thống đấu tranh bất khuất của công nhân vùng mỏ than Đông Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng những năm 1930 của thế kỷ trước. Mà đỉnh cao là tháng 11/1936. Hơn nửa thế kỷ sau, đọc lại. Vẫn thấy bồi hồi, xúc động.
Phần I của cuốn tiểu thuyết "Bất khuất” giới thiệu toàn cảnh vùng mỏ than Đông Bắc tháng 11/1936. Sau cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930-1931, Pháp khủng bố trắng phong trào cách mạng, cơ sở Đảng ở vùng than Đông Bắc bị phá, bọn chủ mỏ người Pháp đã 4 lần giảm lương của thợ mỏ. Cuộc sống của người thợ mỏ, của người vùng than lâm vào bước đường cùng. Người thợ mỏ bị bóc lột đến tận xương tuỷ không biết kêu ai. Gia đình những người thợ mỏ bị đầy đọa: con gái lớn bị làm nhục, con trai lớn bán thân đổi mấy đồng xu trong hầm lò, không biết sống chết lúc nào. Người nào liều lĩnh trở thành "tướng cướp”, ai ươn hèn khuất thân làm tay sai cho chủ mỏ.
Đã đến lúc phải đấu tranh giành quyền sống cho mình nhưng đấu tranh như thế nào? Khẩu hiệu ra sao? Làm sao bắt liên lạc được với tổ chức Đảng? Bác Nhỡ, một cán bộ Đảng còn sót lại sau khủng bố trắng cùng mấy công nhân trong Công hội đỏ trăn trở tìm đường. Cuối cùng mọi người quyết định cứ đấu tranh với hình thức đơn giản nhất "nghỉ buổi ở nhà để xin Sở Mỏ cho anh em vay tiền đầu tháng” để từ đó tổ chức Đảng tìm đến. "Chim không bay sao nhập được đàn?”.
Cuộc đấu tranh đầu tiên của công nhân mỏ khu vực Cẩm Phả giành thắng lợi. Những công nhân cốt cán bước đầu được giác ngộ. Bắt được tín hiệu của cuộc đấu tranh, thành uỷ Hải Phòng cử người về bắt mối liên lạc với Tuệ, một cán bộ của Đảng vừa thoát khỏi nhà tù Côn Đảo bị địch "giam lỏng” tại địa phương. Tuệ bắt mối với bác Nhỡ. Cũng từ đấy, phong trào cách mạng ở vùng than Đông Bắc lớn mạnh dần, phát triển không những ở Cẩm Phả mà còn lan sang Hồng Gai – Mông Dương…và toàn bộ vùng mỏ than Đông Bắc.
Chỉ qua mấy cuộc đấu tranh, Đảng đã thành lập được hai chi bộ ở vùng than Cẩm Phả và Hồng Gai, tổ chức Công hội đỏ được khôi phục, có nhiều thành viên cốt cán trong công nhân lao động tham gia, lôi kéo được một bộ phận dân nghèo ỏ vùng mỏ, kể cả vùng dân tộc thiểu số và bà con làm nghề trên biển, một số tiểu thương, viên chức trong bộ máy cai trị của Pháp.
Đánh giá về phong trào công nhân vùng mỏ than Đông Bắc thời gian này, trong cuốn " Lịch sử Việt Nam " (Nhà xuất bản Khoa học xã hội – Hà Nội 2017) tập 9 chương IV (trang 433 và 434) nêu rõ, "Những tháng cuối năm 1936 đã có những cuộc bãi công lớn chưa từng thấy, với sự tham gia của hàng nghìn, hàng vạn công nhân của một cơ sở, của nhiều cơ sở trong cùng một ngành hay liên ngành, cùng một khu vực hay liên khu vực có tổ chức và phương pháp hẳn hoi. Có thể lấy làm ví dụ là cuộc tổng đình công của 30.000 thợ mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả, bắt đầu từ cuộc bãi công của gần 10.000 công nhân Cẩm Phả vào ngày 13/11/1936”.
Vẫn theo cuốn "Lịch sử Việt Nam” tập 9 trang 434, "Phong trào bãi công mạnh mẽ của công nhân vào cuối năm 1936 đã có tác động thúc đẩy nhanh việc (người Pháp - Thanh Vũ) ban hành Nghị định Toàn quyền ngày 11/10/1936 về chế độ giờ làm (ngày làm 8 tiếng - Thanh Vũ) và Thông tư Toàn quyền ngày 17/12/1936 yêu cầu chủ xí nghiệp tăng lương đồng loạt 20% cho những người ăn lương công nhật dưới 5 hào và 11% cho những người lương dưới 1 đồng”.
Sau này, Đảng quyết định lấy ngày 12/11 hằng năm là "Ngày truyền thống công nhân mỏ”, còn được gọi với một cái tên khác "Ngày vùng mỏ bất khuất” và có lẽ, tên gọi cuốn tiểu thuyết của Lê Phương bắt nguồn từ đấy. Nhưng điều gì đã làm nên truyền thống "vùng mỏ bất khuất”?
Trong đêm đen ách cai trị của bọn thực dân Pháp, những người công nhân mỏ được sự giác ngộ của lý tưởng cách mạng, đã đi từ những cuộc đấu tranh "tự phát” sang "tự giác”. Họ hiểu muốn cải thiện được đời sống, muốn bảo vệ được gia đình vợ con không thể chỉ dừng lại ở những hành động bột phát như chém xả vai bọn cai ác mà phải đoàn kết lại trong một tổ chức, cùng thống nhất hành động và đã đi là đi tới cùng.
Từ những cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, sang cuộc chiến đấu giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, họ hiểu dấn thân vào con đường đấu tranh là phải gồng lưng lên chống lại đòn roi khủng bố của kẻ thù, có thể người mất, nhà tan… Những người thợ mỏ như Bỉnh, như Nùng, Đức, Tống…sẵn sàng xông lên trước họng súng và lưỡi lê của kẻ thù để đấu tranh, bảo vệ những người bạn cùng chí hướng với mình. Cuộc đấu tranh của họ, gương đoàn kết chiến đấu, dũng cảm quên mình của họ đã thức tỉnh những tấm lòng yêu nước của những người dân vùng mỏ, ở cả trên rừng và dưới biển, kể cả tầng lớp "dưới đáy xã hội”, thức tỉnh cả một bộ phận những viên chức trong bộ máy cai trị của chủ Pháp, hướng họ hoà vào cuộc đấu tranh chung.
Từng trang, từng trang của tiểu thuyết "Bất khuất” mô tả cuộc đấu tranh ấy, mô tả những con người ấy, chi tiết trong từng ngày, từng ngày của hai cuộc đấu tranh lớn ở hai vùng than Cẩm Phả và Hồng Gai.
Nhà văn Lê Phương có cái may mắn đầu những năm 1960 sớm có những hiểu biết về cuộc đấu tranh của công nhân vùng mỏ than Đông Bắc. Ông đi xuống vùng mỏ, cùng ăn, cùng ở với những người thợ mỏ đã tham gia các cuộc đấu tranh ngày ấy.
Bản thảo "Bất khuất” viết xong, ông gửi xuống, nhờ những nhân chứng sống thẩm định. Trong bức thư ngày 19/8/1964 gửi nhà văn Lê Phương nhân được đọc bản thảo hai cuốn sách, ông Nguyễn Văn Nhỡ, một nhân vật được nêu trong tiểu thuyết, viết: "Vào khoảng đầu tháng 8 vừa rồi, khi tôi sắp sửa biên thư cho đồng chí, bọn đế quốc Mỹ gây sự bắn phá Hồng Gai. Và chúng đã bị con cháu của những người thợ mỏ trong truyện của đồng chí đánh cho một trận tơi bời. Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta ngày mồng 5/8 vừa rồi gợi cho tôi suy nghĩ mãi về truyền thống bất khuất của vùng mỏ, điều mà đồng chí đã cố gắng phản ánh trong mấy trăm trang sách của mình. Có hiểu truyền thống lâu đời đó của khu mỏ thì mới thấy hết những ý nghĩa sâu xa và tất yếu của chiến thắng ngày mồng 5/8 vừa rồi".
(Theo VOV)