Các đợt rét đậm rét hại có xu hướng kéo dài
Ông Hoàng Phúc Lâm, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho biết, hiện tại, hiện tượng ENSO đang trong trạng thái trung tính nhưng nghiêng dần về pha lạnh (với chuẩn sai nhiệt độ mặt nước biển khu vực Nino3.4 đang thấp hơn trung bình nhiều năm là -0,3 độ C vào tuần đầu tháng 10). Dự báo, thời kỳ từ tháng 11/2024-01/2025, ENSO có khả năng chuyển sang trạng thái La Nina với xác suất 60-70%.
Từ tháng 11/2024-1/2025, hoạt động của bão/áp thấp nhiệt đới trên khu vực Biển Đông và ảnh hưởng đến đất liền nước ta có khả năng ở mức xấp xỉ đến cao hơn so với trung bình nhiều năm (trung bình nhiều năm trên Biển Đông: 2,8 cơn, đổ bộ vào đất liền: 1,1 cơn). Bão/ATNĐ đổ bộ vào đất liền có khả năng tập trung nhiều ở khu vực Trung Bộ và các tỉnh phía Nam. Đề phòng khả năng bão/áp thấp nhiệt đới hình thành ngay trên khu vực Biển Đông.
Trên phạm vi cả nước tiếp tục có khả năng xảy ra các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như dông, lốc, sét và gió giật mạnh. Các đợt mưa lớn sẽ tiếp tục xuất hiện tại khu vực Trung và Nam Trung Bộ trong tháng 11/2024. Mùa mưa ở khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ có thể kết thúc muộn hơn bình thường (khoảng cuối tháng 11 tại Tây Nguyên và Nam Bộ và cuối tháng 12/2024 tại khu vực Trung và Nam Trung Bộ).
Ông Hoàng Phúc Lâm cho biết, không khí lạnh và rét đậm, rét hại có khả năng hoạt động mạnh trong tháng 12/2024-1/2025 và gây ra các đợt rét đậm, rét hại. Cần đề phòng khả năng xảy ra những đợt rét đậm, rét hại kéo dài đặc biệt tại các khu vực vùng núi phía bắc, kèm theo hiện tượng sương muối, băng giá trong thời gian này. Hiện tượng rét đậm, rét hại tại khu vực Bắc Bộ có khả năng xuất hiện trên diện rộng từ nửa cuối tháng 12 (tương đương so với trung bình nhiều năm.
Từ nay đến cuối năm, bão/áp thấp nhiệt đới, gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc có khả năng gây ra gió mạnh, sóng lớn ảnh hưởng đến các hoạt động trên các vùng biển. Hiện tượng mưa lớn, dông, lốc, sét, mưa đá, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động sản xuất và sức khỏe cộng đồng ở các khu vực trên phạm vi toàn quốc.
"Ngoài ra các đợt rét đậm, rét hại có thể kèm theo hiện tượng sương muối, băng giá có thể tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của người dân", ông Hoàng Phúc Lâm cho biết.
Dự báo, tháng 11, nhiệt độ trung bình trên phạm vi cả nước phổ biến cao hơn so với trung bình nhiều năm từ 0,5-1,0 độ C, có nơi cao hơn. Tháng 12/2024-01/2025, nhiệt độ trung bình phổ biến ở mức xấp xỉ so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Tổng lượng mưa, khu vực Bắc Bộ có tổng lượng mưa tháng 11/2024 phổ biến xấp xỉ so với trung bình nhiều năm; riêng một số nơi thuộc khu vực vùng núi thấp hơn từ 10-20% so với trung bình nhiều năm. Tháng 12/2024-01/2025, tổng lượng mưa ở khu vực Bắc Bộ phổ biến từ 10-35mm (thấp hơn từ 5-10mm so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ).
Khu vực Trung Bộ, tổng lượng mưa tháng 11/2024 phổ biến cao hơn so với trung bình nhiều năm từ 10-30%; riêng khu vực Bắc Trung Bộ xấp xỉ với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Tháng 12/2024, tổng lượng mưa ở khu vực Bắc Trung Bộ phổ biến từ 15-30mm, riêng khu vực các tỉnh Nam Nghệ An-Hà Tĩnh phổ biến 50-100mm (thấp hơn trung bình nhiều năm từ 5-15mm); các tỉnh Quảng Bình-Quảng Trị tổng lượng mưa phổ biến 100-200mm (cao hơn trung bình nhiều năm 10-15mm); các tỉnh từ Thừa Thiên Huế-Khánh Hòa tổng lượng mưa phổ biến 250-500mm, có nơi cao hơn (cao hơn trung bình nhiều năm 30-60mm); khu vực Ninh Thuận-Bình Thuận tổng lượng mưa phổ biến 30-80mm (cao hơn trung bình nhiều năm 15-30mm).
Tháng 1/2025, tổng lượng mưa ở khu vực Bắc Trung Bộ phổ biến từ 20-50mm, riêng Hà Tĩnh có nơi trên 100mm (ở ngưỡng xấp xỉ so với trung bình nhiều năm); khu vực Trung và Nam Trung Bộ phổ biến 50-150mm (ở ngưỡng xấp xỉ so với trung bình nhiều năm).
Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ tháng 11, tổng lượng mưa tại khu vực cao hơn từ 5-20% so với trung bình nhiều năm. Tháng 12/2024, tại khu vực Tây Nguyên tổng lượng mưa phổ biến từ 30-50mm, riêng một số nơi ở khu vực Nam Tây Nguyên và Nam Bộ tổng lượng mưa phổ biến 50-80mm, có nơi cao hơn (cao hơn từ 10-30mm so với trung bình nhiều năm cùng kỳ). Tháng 1/2025, tổng lượng mưa ở khu vực Tây Nguyên phổ biến 10-20mm, riêng Lâm Đồng có nơi trên 30mm; ở khu vực Nam Bộ từ 15-30mm (cao hơn trung bình nhiều năm 5-15mm).
La Nina kéo dài đến khoảng tháng 4/2025
Ông Hoàng Phúc Lâm cho biết, dự báo hiện tượng ENSO duy trì ở trạng thái La Nina yếu đến khoảng tháng 3-4/2025 với xác suất khoảng 50-60%. Trong các tháng 2-4/2025, trên khu vực Biển Đông ít có khả năng xuất hiện bão/áp thấp nhiệt đới.
Không khí lạnh tiếp tục hoạt động mạnh trong tháng 2/2025 gây ra các đợt rét đậm, rét hại trên diện rộng ở các tỉnh miền Bắc. Trong các đợt rét đậm rét hại cần đề phòng khả năng xảy ra các hiện tượng sương muối, băng giá, đặc biệt tại khu vực vùng núi phía Bắc. Ngoài ra, trong thời kỳ mùa khô tại khu vực Nam Bộ có thể xuất hiện mưa trái mùa.
Gió mùa Đông Bắc có khả năng gây ra gió mạnh, sóng lớn ảnh hưởng đến các hoạt động trên khu vực Biển Đông. Hiện tượng rét đậm, rét hại có kèm theo hiện tượng sương muối, băng giá gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sản xuất nông nghiệp của người dân (đặc biệt ở khu vực vùng núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ).
Từ tháng 2-4/2025, nhiệt độ trung bình trên cả nước phổ biến ở mức xấp xỉ so với trung bình nhiều năm; riêng tháng 3/2025 có khả năng cao hơn từ 0,5-1,0 độ C so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Xu thế lượng mưa, khu vực Bắc Bộ tháng 2/2025, tổng lượng mưa phổ biến từ 15-40mm, có nơi cao hơn (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm). Tháng 3/2025, tổng lượng mưa phổ biến 50-80mm, có nơi cao hơn (cao hơn trung bình nhiều năm từ 5-10mm). Tháng 4/2025, tổng lượng mưa phổ biến 70-120mm (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ).
Khu vực Trung Bộ, tháng 2/2025, tổng lượng mưa ở khu vực Bắc Trung Bộ phổ biến 20-50mm, riêng Hà Tĩnh có nơi trên 100mm (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm); khu vực Trung và Nam Trung Bộ tổng lượng mưa phổ biến 30-60mm, có nơi cao hơn (cao hơn trung bình nhiều năm 5-15mm), riêng các tỉnh Ninh Thuận-Bình Thuận ít mưa với tổng lượng mưa phổ biến 5-15mm. Tháng 3/2025, tổng lượng mưa phổ biến 20-50mm, có nơi cao hơn (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm). Tháng 4/2025, tổng lượng mưa phổ biến 40-80mm (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ).
Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, tháng 2/2025, tổng lượng mưa ở các khu vực phổ biến từ 15-30mm, có nơi cao hơn (thấp hơn từ 5-10mm so với trung bình nhiều năm). Tháng 3, tổng lượng mưa trên cả hai khu vực phổ biến 20-50mm, có nơi cao hơn (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm). Tháng 4/2025, tổng lượng mưa phổ biến từ 50-120mm (xấp xỉ so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ).
Lưu vực sông Mê Kông, khu vực thượng lưu trong tháng 2/2025 phổ biến ít mưa; tháng 3-4/2025, tổng lượng mưa phổ biến cao hơn từ 5-15% so với trung bình nhiều năm. Tại khu vực trung lưu, trong tháng 2/2025 phổ biến ít mưa; tháng 3/2025, tổng lượng mưa phổ biến thấp hơn từ 5-10% so với tổng lượng mưa; tháng 4/2024 ở ngưỡng xấp xỉ so với trung bình nhiều năm. Khu vực hạ lưu, trong tháng 2-3/2025, tổng lượng mưa phổ biến xấp xỉ so với trung bình nhiều năm; tháng 4/2025 phổ biến cao hơn từ 5-10% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
(Theo SKĐS)