Cần có quy hoạch đầu tư cho vùng chè Yên Bái

  • Cập nhật: Thứ hai, 19/3/2012 | 3:22:39 PM

YBĐT - Mặc dù tỉnh Yên Bái đã có cơ chế hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/ha trồng cải tạo, thay thế nhưng số tiền này mới chỉ đủ tiền giống, trong khi tổng vốn đầu tư tối thiểu cũng trên 30 triệu đồng/ha.

Ngành chè rất cần đổi mới công nghệ chế biến.
Ngành chè rất cần đổi mới công nghệ chế biến.

Trong tập đoàn cây công nghiệp ở Yên Bái thì cây chè đã khẳng định vị trí của mình trong suốt hơn 40 năm nay và không thể thay thế! Chẳng vậy mà diện tích, sản lượng cũng như giá trị kinh tế và số lao động, người làm chè luôn tăng lên theo năm tháng. Chè cũng là một ngành chế biến có tổng giá trị trên 400 tỷ đồng mỗi năm và tạo công ăn việc làm, thu nhập tương đối ổn định cho hàng chục ngàn lao động địa phương.

Sản xuất kinh doanh chè là một ngành kinh tế chủ lực trong sản xuất nông-lâm nghiệp của tỉnh, để từng bước nâng cao giá trị kinh tế của cây chè, Tỉnh ủy Yên Bái đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TU về phát triển, nâng cao chất lượng sản xuất, chế biến, kinh doanh chè; UBND tỉnh cũng có “Đề án phát triển sản xuất kinh doanh chè năm 2005-2010 và định hướng đến năm 2020”.

Quan điểm, mục tiêu và những giải pháp phát triển sản xuất, chế biến chè là: Phát triển chè đi vào chiều sâu, lấy chất lượng, giá trị và hiệu quả kinh tế là chính. Hình thành vùng sản xuất chè tập trung, có quy mô lớn và có chất lượng cao, mang tính sản xuất hàng hoá gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm để tạo khối lượng sản phẩm lớn, chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện được, trong sản xuất cần tập trung vào vấn đề quy hoạch, trồng mới, trồng cải tạo, thay thế giống chè cũ bằng giống mới năng suất cao, chất lượng búp tốt đáp ứng cho chế biến, đầu tư nâng cấp dây chuyền máy móc cũng như công nghệ chế biến và cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị trường...

Nói về kinh nghiệm sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU, ông Phạm Văn Lái - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho biết: “Cái được lớn nhất là người dân vùng chè đã thực sự sống bằng cây chè. Cây chè không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động mà còn góp phần quan trọng bảo vệ môi trường sinh thái”. Theo đó, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng cao (từ khâu chăm sóc, thu hái đến chế biến), năng suất chè đã nâng lên gần 80 tạ/ha. Người làm chè từ sản xuất nông nghiệp đến công nghiệp đã có bước chuyển rõ nét, từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá và thị trường, coi trọng chất lượng và chế biến ra những sản phẩm mà thị trường cần.

Nhìn một cách tổng thể thì những mục tiêu cơ bản trong phát triển sản xuất chè vẫn đạt như diện tích ổn định 13 ngàn ha, sản lượng búp đạt trên 90.812 tấn, sản phẩm chế biến đạt 22 ngàn tấn... nhưng đánh giá cụ thể và chi tiết thì sản xuất kinh doanh chè vẫn còn rất nhiều việc phải bàn và phải làm. Người làm chè đã nhận thức và sản xuất theo hướng hàng hoá nhưng sản xuất hàng hoá theo hướng chất lượng cao thì lại chưa làm được, đó cũng là lý do mà sản phẩm chè Yên Bái chỉ ở mức trung bình yếu so với các địa phương làm chè khác từ chất lượng đến giá sản phẩm cũng như năng lực cạnh tranh.

Hiện cả tỉnh mới chỉ có 2-3 dây chuyền sản xuất chè tương đối hiện đại theo công nghệ CTC còn lại vẫn chủ yếu là sản xuất chè đen bán thành phẩm theo công nghệ OTD. Không chỉ có vậy mà trong sản xuất cũng có khá nhiều cơ sở sản xuất không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chạy theo số lượng dẫn tới giá trị không cao làm giảm uy tín, thị trường chè Yên Bái. Các cơ quan quản lý Nhà nước mỗi khi vào vụ chè đều kêu trời rồi tuyên bố thành lập đoàn kiểm tra, rà soát đánh giá lại các cơ sở chế biến, nếu không đảm bảo các quy định sẽ đóng cửa thu hồi giấy phép đầu tư, kinh doanh nhưng cho đến nay vẫn không có doanh nghiệp nào bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Nông dân làm chè đầu tư chưa thật bài bản, thu hái “tận diệt”, doanh nghiệp chế biến chè không tái đầu tư cho vùng nguyên liệu mà chỉ chăm chăm “bóc màu” chè.
Việc áp dụng KHKT vào sản xuất còn hạn chế, nhất là sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap (chè sạch, chè hữu cơ) mà phần lớn vẫn sử dụng thuốc sâu và phân hoá học. Doanh nghiệp chưa thực sự đổi mới dây chuyền máy móc và công nghệ chế biến, cơ cấu sản phẩm thì chè đen vẫn là chủ yếu, chiếm trên 85% còn lại là chè xanh, chè chất lượng cao. Chúng ta cũng chưa phát huy được lợi thế về chè đặc sản, sản phẩm ít, chất lượng kém. Trong trồng và cải tạo giống chè không đạt yêu cầu, vốn đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp, trong vài năm đầu đưa bộ giống chè mới vào trồng cải tạo chưa thật chuẩn. Quy hoạch tốt nhưng thực hiện quy hoạch rất kém, nhất là trong trồng cải tạo, thay thế chè già cỗi bằng giống mới năng suất cao, chất lượng búp tốt.

Hơn 5 năm qua, toàn tỉnh đã trồng và cải tạo được trên 2.000 ha chè nhưng lại không tập trung liền ô liền khoảnh mà rất nhỏ lẻ dẫn tới khi thu hái không đáp ứng cho chế biến chè chất lượng cao. Mặc dù tỉnh đã có cơ chế hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/ha trồng cải tạo, thay thế nhưng số tiền này mới chỉ đủ tiền giống, trong khi tổng vốn đầu tư tối thiểu cũng trên 30 triệu đồng/ha.

Vẫn biết là một đồng vốn hỗ trợ cũng là tốt nhưng với những hộ nông dân làm chè thì đời sống vẫn còn nhiều khó khăn và không thể có một số tiền lớn như vậy để đầu tư, hơn nữa trong 3 năm đầu kiến thiết cơ bản thì đời sống gia đình dựa vào đâu? Thôi thì cứ để chè cũ năng suất thấp nhưng vẫn còn có nguồn thu, chí ít cũng đủ nuôi mấy nhân khẩu trong gia đình. Vay vốn ngân hàng thì lãi cao và không phải gia đình nào cũng được vay vốn trồng chè, Nhà nước cũng không có cơ chế tín dụng cho vay trồng chè nên rất khó khăn - đó là lời bộc bạch của chị Hoàng Thị Ngọc Vân, một hộ có thâm niên hơn 30 năm làm chè ở vùng chè Văn Chấn. Qua đó chúng ta cũng hiểu được phần nào nguyên nhân việc trồng cải tạo, thay thế chè già cỗi không đạt được kết quả như mong muốn.

Trong chế biến cũng còn nhiều bất cập. Nếu như nhìn con số 94 cơ sở chế biến (chỉ tính các cơ sở chế biến có công suất từ 2-40 tấn búp/ngày) thấy rất hùng hậu, công suất chế biến các cơ sở này đã vượt quá 2,5 lần so với khả năng cung ứng vùng nguyên liệu, đấy là chưa kể hàng nghìn lò quay tay và số hộ làm chè thủ công. Số lượng cơ sở, nhà máy thì nhiều nhưng nhưng hầu hết là dây chuyền, máy móc cũ kỹ, công nghệ sản xuất lạc hậu. Hiện cả tỉnh mới chỉ có 2-3 dây chuyền sản xuất chè tương đối hiện đại theo công nghệ CTC còn lại vẫn chủ yếu là sản xuất chè đen bán thành phẩm theo công nghệ OTD.

Không chỉ có vậy mà trong sản xuất cũng có khá nhiều cơ sở sản xuất không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chạy theo số lượng dẫn tới giá trị không cao làm giảm uy tín, thị trường chè Yên Bái.

Các cơ quan quản lý Nhà nước mỗi khi vào vụ chè đều kêu trời rồi tuyên bố thành lập đoàn kiểm tra, rà soát đánh giá lại các cơ sở chế biến, nếu không đảm bảo các quy định sẽ đóng cửa thu hồi giấy phép đầu tư, kinh doanh nhưng cho đến nay vẫn không có doanh nghiệp nào bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Nông dân làm chè đầu tư chưa thật bài bản, thu hái “tận diệt”, doanh nghiệp chế biến chè không tái đầu tư cho vùng nguyên liệu mà chỉ chăm chăm “bóc màu” chè.

Để sản xuất kinh doanh chè hiệu quả và phát triển, chúng ta tiếp tục kế thừa những gì đã làm được và cũng thẳng thắn giải quyết những tồn tại trong những năm qua. Trong sản xuất nông nghiệp, cũng như công nghiệp chế biến cần phải có những quy hoạch cụ thể, vùng nào trồng cải tạo thay thế chè già cỗi bằng giống chè gì và đi liền với đó là đổi mới công nghệ chế biến cho phù hợp.

Quy hoạch phải từ vài trăm ha trở lên, thậm chí cả ngàn ha tạo một vùng chè rộng lớn từ chè Bát tiên, hay cả vùng chè lai LDP1, LDP2, chè Shan tuyết... liền với đó, tỉnh cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp cho người trồng chè, hoặc cơ chế tín dụng như phủ lãi suất vay đến khi thu hoạch trả gốc theo từng năm thu hoạch. Vận động khuyến khích nông dân áp dụng biện pháp canh tác cải tiến, đầu tư dây chuyền máy móc, công nghệ sản xuất chè sạch.

Đã đến lúc chúng ta phải cơ cấu lại sản xuất, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về sản xuất kinh doanh chè. Cần làm quyết liệt và thanh lọc những cơ sở, doanh nghiệp chế biến không đủ tiềm lực tài chính, dây chuyền, máy móc cũ kỹ sản xuất không đảm bảo vệ sinh công nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm. Đặc biệt, tỉnh cần có cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư dây chuyền máy móc công nghệ phù hợp.

Các  doanh nghiệp cũng phải liên kết lại với nhau, đổi mới công nghệ chế biến sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng đủ sức cạnh trang trên thị trường và xây dựng thương hiệu chè Yên Bái. Việc liên kết để sản xuất ra một vài nhóm sản phẩm đồng nhất từ chất lượng tới giá cả, đồng thời tăng cường khả năng tài chính và mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tỉnh cũng cần có cơ chế chính sách thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh chè mang tính “đặc thù” để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, nhất là đầu tư vào chế biến chè đặc sản có lợi thế.

Nhìn rõ những hạn chế để khắc phục và tìm ra những giải pháp cụ thể và hướng đi phù hợp từ sản xuất nông nghiệp đến chế biến, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, chắc chắn sản xuất kinh doanh chè của Yên Bái sẽ trở thành một ngành kinh tế chủ lực trong chiến lược sản xuất nông-lâm nghiệp, giảm nghèo và làm giàu trong nông nghiệp nông thôn.

Thanh Phúc

Các tin khác
Đoàn viên, thanh niên huyện Mù Cang Chải giúp dân vùng lũ dậy lại nhà cửa

Hậu quả trận mưa lớn kèm lũ quét những ngày đầu tháng 8 là nỗi đau, mất mát không gì bù đắp của người dân vùng tâm lũ Mù Cang Chải, đặc biệt là đồng bào các xã Hồ Bốn, Lao Chải và Khao Mang. Song, cũng chính trong lúc đau thương đã sáng lên câu chuyện tình người giúp nhau qua cơn hoạn nạn.

Bà Trần Thị Bích.

Trong hai ngày 12 và 13/6/2023, Báo Yên Bái đăng tải phóng sự (2 kỳ) với nhan đề “Xung quanh việc bà Trần Thị Bích tổ chức cai nghiện ma túy” của tác giả Lê Xuân Trường. Bài viết đã nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc. Sau khi bài viết được đăng tải, bà Trần Thị Bích (nhân vật trong bài viết), người tổ chức cai nghiện tại thị xã Nghĩa Lộ có đơn đề nghị gửi Báo Yên Bái.

Măng Bát Độ được người dân xã Kiên Thành thu hoạch, mang bán tại các cơ sở thu mua tập trung.

Tròn 20 năm bén duyên đất Trấn Yên, đến nay, cây tre măng Bát Độ đã phủ xanh những triền đồi, cánh rừng ở các xã vùng cao Hồng Ca, Kiên Thành, Lương Thịnh, Hưng Khánh. Khẳng định được vị thế của mình là cây trồng đa lợi ích cho người dân, cây tre măng Bát Độ đã góp phần đổi thay diện mạo, đưa Trấn Yên trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Yên Bái và các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc.

Hiện nay, những bản làng xa xôi của huyện Mù Cang Chải đang ngày một đổi thay, đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt... Đây là minh chứng cho sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự bám sát thực tiễn, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, ý chí, khát vọng vươn lên trong triển khai, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống ở nơi vùng cao đặc biệt khó khăn.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục