Sáng 5/1, tại phiên khai mạc kỳ họp bất thường lần thứ 2 Quốc hội khóa XV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đặt mục tiêu đến 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thế và lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều; đã khai thác được tiềm năng, lợi thế của đất nước.
Cụ thể: Phát triển vùng, liên kết vùng chuyển biến tích cực, hình thành nhiều vùng kinh tế lớn có vai trò quan trọng trong phát triển đất nước; Bước đầu đã hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, liên vùng; Không gian đô thị được mở rộng, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế; Đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn; Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được quan tâm đầu tư, tạo diện mạo mới cho đất nước, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, đô thị, thông tin và truyền thông; Nhiều công trình hạ tầng xã hội quan trọng được quan tâm đầu tư;...
Bên cạnh kết quả đạt được, Chính phủ cũng chỉ ra nhiều hạn chế, yếu kém như: Không gian phát triển bị chia cắt nhiều theo địa giới hành chính; liên kết vùng còn nhiều bất cập; Đầu tư phát triển còn dàn trải theo các vùng, miền; chưa tập trung nguồn lực hình thành rõ các vùng động lực đóng vai trò đi đầu và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế đất nước; Chưa hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia đồng bộ và hiện đại, kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển; một số công trình hạ tầng xã hội quan trọng chậm được đầu tư; Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tác động lan tỏa còn hạn chế.
Chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn; việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch còn dàn trải, hiệu quả chưa cao; Ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn, làng nghề và một số lưu vực sông chậm được khắc phục; ô nhiễm môi trường biển, hải đảo gia tăng; Hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế; Chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ trong phát triển các ngành, lĩnh vực để hình thành các khu vực ưu tiên, khuyến khích đầu tư; còn xảy ra mâu thuẫn lợi ích, xung đột tại một số địa bàn.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế yếu kém trên theo thành viên Chính phủ là: Tư duy phát triển dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; Thiếu quy hoạch mang tính tổng thể quốc gia để xác định rõ mô hình phát triển theo không gian lãnh thổ trên phạm vi cả nước; Công tác quy hoạch chưa được coi trọng đúng mức, chất lượng chưa cao; Thiếu cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế liên ngành, liên vùng, khắc phục tình trạng cục bộ địa phương; Chưa dành nguồn lực thích đáng để đầu tư hình thành bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, các vùng; các khu vực ưu tiên phát triển như vùng động lực, vùng kinh tế trọng điểm, hành lang kinh tế; Phát triển bền vững chưa trở thành tư duy chủ đạo trong hoạch định và thực hiện chính sách phát triển.
Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu đến 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại; đến 2050 là nước phát triển, thu nhập cao...
Vì vậy, theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.
Tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Các vùng phát triển hài hoà, bền vững, khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh. Hệ thống đô thị thông minh, hiện đại, giàu bản sắc, xanh. Giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Môi trường có chất lượng tốt, xã hội hài hoà với thiên nhiên, phát triển hiệu quả theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, carbon thấp. Giai đoạn 2031 - 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5 - 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 27.000 - 32.000 USD. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 - 75%. Chỉ số phát triển con người ở mức rất cao, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.
Đánh giá rõ ưu điểm, lợi thế của các điều kiện làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch
Trình bày Báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Quy hoạch tổng thể quốc gia được xây dựng cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Báo cáo tổng hợp quy hoạch được xây dựng cơ bản đã đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 22 Luật Quy hoạch và được hướng dẫn chi tiết tại Điều 20 Nghị định số 37/2019/NĐ-CP ngày 07/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quy hoạch (Nghị định số 37). Tuy nhiên còn một số nội dung cần tiếp tục rà soát lại để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khoa học, hợp lý.
Về điều kiện tự nhiên, các yếu tố phát triển và hiện trạng phát triển quốc gia, cần bổ sung thêm các phân tích, đánh giá rõ về ưu điểm, lợi thế của các điều kiện làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch. Đồng thời, các yếu tố khoa học công nghệ, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo, năng lực cạnh tranh, thể chế quốc gia, văn hóa truyền thống dân tộc, dân số và xu hướng dịch chuyển dân cư… cũng cần được phân tích, nhìn nhận một cách đầy đủ.
Ngoài ra, theo Ủy ban Kinh tế, các dữ liệu đánh giá ở một số lĩnh vực còn thiếu chi tiết, dẫn đến sự không đồng nhất về dữ liệu các vùng, lĩnh vực và đối tượng nên cần có sự chọn lọc mức độ chi tiết của dữ liệu, phân tích tương quan cơ cấu các ngành để đưa ra những chỉ tiêu phân bổ kế hoạch được chính xác hơn so với thực tiễn. Bên cạnh đó, cần bổ sung, làm rõ hơn nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế để bảo đảm các giải pháp đề xuất là phù hợp, khả thi.
Về quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển và những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu làm rõ hơn, các nội dung phải định hướng trong việc sắp xếp, phân bố không gian để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược đã đề ra.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung về chất lượng nguồn nhân lực và quan điểm "văn hóa là một trong các trụ cột phát triển bền vững đất nước”. Quy hoạch tổng thể quốc gia với vai trò định hướng và xử lý mối quan hệ giữa các quy hoạch với nhau, do đó, cần bổ sung, nhấn mạnh hơn việc giảm chồng chéo, chồng lấn, xung đột trong sử dụng không gian giữa các ngành, các địa phương và quan điểm về phát triển kinh tế biển.
Về dự báo xu thế phát triển và các kịch bản phát triển, Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung đánh giá các xu thế có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn tới như: phát triển xanh, phát triển bao trùm, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo để định hướng phát triển và tổ chức không gian đất nước trong thời kỳ tới. Đồng thời, bổ sung dự báo về xu thế phát triển xã hội, các xu hướng hiện nay trên thế giới ảnh hưởng, tác động đến nước ta.
Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ những vấn đề thách thức đối với sự phát triển quốc gia như: kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; năng lực lập kế hoạch, thẩm định các dự án đầu tư, nhất là yêu cầu về lồng ghép chính sách, tích hợp nguồn lực cho đầu tư phát triển; cải cách thủ tục hành chính; chuyển đổi số tại các vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi... còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, cần đánh giá cơ hội phát triển đối với Việt Nam trước các xu thế mới như: hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ và tri thức; xu hướng tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; xu hướng chuyển dịch dần sang các ngành công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano... để nhận định rõ hơn cơ hội; phát triển, khó khăn và thách thức đối với sự phát triển của quốc gia.
Ngoài ra, Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ về định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng; định hướng phát triển không gian biển; định hướng sử dụng đất quốc gia; định hướng khai thác và sử dụng vùng trời; định hướng phân vùng và liên kết vùng; định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; định hướng phát triển ngành hạ tầng xã hội cấp quốc gia.
(Theo VOV)