Kinh tế phục hồi mạnh mẽ, thu nhập người dân tăng
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, nhìn chung, tình hình kinh tế-xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng phục hồi tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, khởi sắc trên nhiều lĩnh vực. Trong đó có một số kết quả nổi bật.
Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Lạm phát được kiểm soát ở mức 2,73% trong khi chịu sức ép lạm phát thế giới rất cao. Tỉ giá, lãi suất, thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, có mặt được cải thiện hơn.
Thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 94% dự toán, tăng 22%. Xuất nhập khẩu đạt gần 559 tỷ USD, tăng 14,2%, xuất siêu 6,52 tỷ USD. An ninh năng lượng (điện, xăng, dầu), an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu trên 5,4 triệu tấn gạo, xuất khẩu nông sản đạt 40,8 tỷ USD). Thị trường lao động phục hồi tốt; cơ bản đáp ứng nhu cầu lao động (lao động khu vực công nghiệp tăng 21,8% so cùng kỳ).
Tăng trưởng kinh tế phục hồi mạnh mẽ. GDP 9 tháng tăng 8,83% (cao nhất cùng kỳ từ năm 2011 đến nay).
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh; 9 tháng đạt trên 2,1 triệu tỷ đồng, tăng 12,5% so cùng kỳ. Vốn FDI thực hiện đạt trên 15,4 tỷ USD (cao nhất cùng kỳ trong 5 năm qua), tăng 16,3%.
Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng khởi sắc. An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng lên. Từ tháng 7/2021 đến nay, đã hỗ trợ trên 85.000 tỷ đồng cho trên 55 triệu lượt người và gần 856.000 người sử dụng lao động gặp khó khăn theo các Nghị quyết số 68, 126, 116 của Chính phủ.
Đáng chú ý, Thủ tướng cho biết, thu nhập bình quân của lao động là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 1,6 triệu đồng so với cùng kỳ. Theo kết quả khảo sát sơ bộ, 83,2% số hộ dân có thu nhập tăng hoặc không đổi so với cùng kỳ. Tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm; lực lượng lao động tăng (9 tháng là 51,6 triệu người, tăng 1,2 triệu so với cùng kỳ)…
Cùng với đó là nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, các dự án yếu kém được tập trung xử lý, có hiệu quả, báo cáo cấp có thẩm quyền trên tinh thần không hợp thức hóa cái sai nhưng có giải pháp để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giải phóng các nguồn lực, như đưa vào vận hành Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, Sông Hậu 1; triển khai xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém, Nhiệt điện Long Phú 1, Ô Môn, Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, Lào Cai, cơ sở 2 của các Bệnh viện Bạch Mai, Việt – Đức…
Về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, đã giải ngân đạt gần 60,8 nghìn tỷ đồng gồm vay ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách xã hội 10.411 tỷ đồng, hỗ trợ tiền thuê nhà 3.545 tỷ đồng cho hơn 5 triệu lao động, giảm thuế, gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất 39.422 tỷ đồng;
Hỗ trợ 2% lãi suất cho khoảng 9.800 tỷ đồng dư nợ tín dụng, với số tiền là 13,5 tỷ đồng; đã giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương thuộc Chương trình với tổng số vốn 147.138 tỷ đồng cho 94 nhiệm vụ, dự án…
Nhiều tổ chức quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá tích cực, lạc quan về Việt Nam. Hãng S&P nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên BB+ với triển vọng "ổn định”. Hãng Fitch Ratings xếp hạng BB với triển vọng "tích cực”. Hãng Moody’s xếp hạng Ba2 với triển vọng "ổn định”. Hãng Nikkei đánh giá Chỉ số phục hồi COVID-19 của Việt Nam tiếp tục được nâng hạng, xếp thứ 2 thế giới.
Việt Nam được dự báo thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á trong năm 2022 và 2023 (Moody‘s, WB, IMF, ADB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 lần lượt là 8,5%, 7,2%, 7%, 6,5%).
Thủ tướng cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, khả năng chống chịu thì có hạn, cho nên chỉ cần một biến động nhỏ ở bên ngoài có thể tác động lớn đến trong nước.
Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian "nước rút”
Thủ tướng đặc biệt lưu ý quý IV/2022 có ý nghĩa quan trọng, là thời gian "nước rút” để "về đích”. Vì vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức.
Thủ tướng phân tích thêm một số yếu tố tác động tới Việt Nam như cạnh tranh chiến lược, chính sách phòng, chống dịch, lạm phát tăng cao, giá nguyên liệu đầu vào tăng. Đồng USD tăng giá làm giảm giá đồng tiền nhiều nước, trong đó có đồng tiền của Việt Nam, tác động tích cực tới xuất khẩu nhưng tác động tiêu cực tới nhập khẩu.
Do đó, chúng ta phải đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng và giảm nhập khẩu, tăng tổng cung và tổng cầu trong nước; các bộ, ngành tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo, các địa phương cùng vào cuộc, động viên các doanh nghiệp trong nước tham gia, phối hợp với các doanh nghiệp FDI để cùng làm việc này.
Cùng với đó, đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược; tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật, cải cách hành chính, lập quy hoạch; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực….
(Theo Vnmedia)