Qua đó, kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi (DTTS&MN) trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống của nhân dân được nâng lên. Minh chứng là tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào DTTS&MN năm 2024 giảm bình quân 7,66%, vượt 2,66% so với mục tiêu Trung ương giao, trong đó tại 2 huyện nghèo là Mù Cang Chải giảm 8,51%, huyện TrạmTấu giảm 6,95%.
Nhìn lại giai đoạn 2019 - 2024, việc triển khai các chương trình, dự án, chính sách dân tộc được các cấp ủy, chính quyền trong tỉnh quan tâm, chú trọng thực hiện đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, phù hợp với thực tế của từng địa phương đã góp phần quan trọng ổn định kinh tế - xã hội trên địa bàn, tạo tiền đề cho vùng đồng bào DTTS và các xã đặc biệt khó khăn từng bước phát triển bền vững.
Chương trình 135 (Dự án 2) với tổng kinh phí trên 320 tỷ đồng đã đầu tư xây dựng 247 công trình giao thông, thủy lợi, trường học, nhà văn hóa; thực hiện trên 200 dự án hỗ trợ đại gia súc, gia súc, gia cầm, cây ăn quả, cây lương thực, máy móc thiết bị cho 18.000 lượt hộ được thụ hưởng.
Cùng với đó, nguồn lực từ chính sách đặc thù hỗ trợ phát kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN giai đoạn 2019 - 2020 đã hỗ trợ téc nước sinh hoạt cho trên 6.000 hộ, chuyển đổi ngành nghề cho 345 hộ; hỗ trợ trên 900 hộ đồng bào DTTS nghèo ở xã khu vực III, thôn bản đặc biệt khó khăn ở xã khu vực II vay vốn; xây dựng 6 công trình phục vụ đời sống nhân dân vùng DTTS.
Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các DTTS rất ít người giai đoạn 2016-2025 đã triển khai xây dựng 6 công trình giao thông, 2 nhà sinh hoạt cộng đồng; hỗ trợ phát triển sản xuất cho gần 1.000 lượt hộ; cấp gần 700 điện thoại thông minh cho người có uy tín với cộng đồng, hoạt động thông qua nhóm Zalo "Người có uy tín tỉnh Yên Bái” nhằm tăng cường cung cấp trao đổi thông tin hai chiều và nâng cao trách nhiệm của người có uy tín với cộng đồng...
Được biết, riêng giai đoạn 2019 - 2024, tỉnh Yên Bái đã được quan tâm bố trí trên 32.000 tỷ đồng đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng vùng DTTS&MN, phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đồng bào DTTS. Trong đó, ưu tiên nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, thủy lợi, chợ, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, điện lưới, viễn thông, phát thanh, truyền hình...
Tại Trấn Yên, chỉ riêng Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025 được giao tổng nguồn vốn trên 18,6 tỷ đồng, huyện đã thực hiện nâng cấp, sửa chữa 4 công trình cấp nước sinh hoạt tại các thôn Khe Ron, Khe Tiến, xã Hồng Ca; thôn Đồng Song, Kiên Lao xã Kiên Thành; 3 công trình làm đường tại 2 thôn Khe Tiến và Hồng Lâu đến trung tâm xã Hồng Ca và thôn Khe Cá, xã Lương Thịnh; giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, máy móc dịch vụ nông nghiệp, kinh phí thực hiện trên 2,4 tỷ đồng; hỗ trợ công trình nước sinh hoạt phân tán cho 86 hộ tại các xã: Kiên thành, Việt Hồng, Hồng Ca, Lương Thịnh, Hưng Thịnh, Việt Cường; hỗ trợ máy móc dịch vụ nông nghiệp cho 38 hộ DTTS xã Hồng Ca. Đặc biệt, nguồn lực của Chương trình đã hỗ trợ làm nhà ở cho 48 hộ DTTS nghèo trong huyện với tổng kinh phí gần 2 tỷ đồng.
Lãnh đạo UBND huyện Trấn Yên khẳng định: giai đoạn 2019-2024, việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án, chính sách đối với vùng đồng bào DTTS trên địa bàn đã mang lại hiệu quả thiết thực cho vùng đồng bào DTTS&MN. Đời sống đồng bào có nhiều khởi sắc, tạo tiền đề quan trọng để các DTTS có cơ hội phát triển. Kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội được tăng cường đầu tư, nhiều công trình phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh được xây dựng.
Đến nay, trên địa bàn huyện, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm. Công tác huy động các nguồn lực để đầu tư các công trình thủy lợi nước sinh hoạt trường học y tế, điện nông thôn... đã được quan tâm thực hiện. Qua đó đã góp phần nâng tỷ lệ hộ được sử dụng điện lưới quốc gia trên địa bàn đạt 100%; số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 98%; số phòng học được xây dựng kiên cố, bán kiên cố đạt 100%; hệ thống kênh mương được kiên cố hóa; nhà sinh hoạt cộng đồng các thôn bản được đầu tư xây dựng khang trang…
Trên quan điểm ưu tiên phát triển ở vùng DTTS và miền núi để khai thác tiềm năng, lợi thế, đặc trưng của từng địa phương trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, tạo sinh kế nâng cao đời sống cho người dân vùng DTTS và miền núi, toàn tỉnh đã phát triển được 10 vùng chuyên canh, sản phẩm chủ lực như vùng chuyên canh quế, tre măng Bát độ, sơn tra, vùng cây ăn quả, vùng chuyên canh chè, lúa, dâu tằm, rừng trồng nguyên liệu 90.755 ha; đã phát triển được 10 sản phẩm đặc sản, hữu cơ là gạo nếp Tú Lệ, Văn Chấn; bưởi Đại Minh, Yên Bình; cam sành, vịt bầu Lâm Thượng, Lục Yên; chè Shan hữu cơ của Văn Chấn và Trạm Tấu; gà đen đặc sản vùng cao; lợn bản địa Yên Bái; sơn tra Mù Cang Chải và Trạm Tấu; quế sản xuất theo phương thức hữu cơ và các loại cây dược liệu...
Tỉnh cũng đã chủ động, kịp thời ban hành các chính sách đặc thù về hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo Nghị quyết số 69 của HĐND tỉnh; hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế đối với người dân thường trú tại các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh khi xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo Nghị quyết số 37/2023/NQ-HĐND; các chính sách thu hút nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực y tế, giáo dục theo Nghị quyết số 12/2021/NQ-HĐND.
Tiếp tục tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN, giai đoạn 2022-2025 gắn với quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, tỉnh chỉ đạo các địa phương chú trọng quan tâm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái…; trong đó, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng đồng bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng cao so với vùng thấp, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Đánh giá kết quả từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021-2025 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo DTTS so với tổng số hộ DTTS của tỉnh Yên Bái đã giảm mạnh, từ 30,36% vào cuối năm 2021 xuống còn 16,4% vào cuối năm 2023 - đó thực sự là nỗ lực lớn. Đến nay, 21/28 xã của Yên Bái đã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn; 126/191 thôn thoát khỏi thôn đặc biệt khó khăn; tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt 100%; tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa đạt 95%; tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác đạt 97,6%; tỷ lệ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 93,5%; tỷ lệ đồng bào DTTS được xem truyền hình và nghe đài phát thanh đạt 99,4. Đã có 89,6% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 95,1% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng…
|
Minh Thúy