Sản xuất kinh doanh chè 2008: “bình cũ, rượu cũ”
- Cập nhật: Thứ ba, 28/10/2008 | 12:00:00 AM
YBĐT - Bước vào niên vụ sản xuất kinh doanh chè 2008, nhiều người kỳ vọng vào sự trỗi dậy của ngành chè Yên Bái. Những kỳ vọng đó không phải không có cơ sở, bởi năm 2008 là năm thứ 3 thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU về phát triển và nâng cao chất lượng sản xuất, chế biến, kinh doanh chè đến năm 2010 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Đề án phát triển chè của UBND tỉnh. Cùng với đã bao nhiêu tiền, của đầu tư vào vùng nguyên liệu và nhiều cơ chế “đặc khu” về đất đai, vốn cho doanh nghiệp chè. Nhưng một niên vụ chè nữa sắp qua đi, sản xuất kinh doanh chè vẫn không có gì sáng sủa.
![]() |
|
Lẹt đẹt ngành chè
Cây chè được coi là cây chủ lực trong xóa đói, giảm nghèo trong nông nghiệp nông thôn của Yên Bái. Nói về diện tích thì Yên Bái đứng thứ hàng tóp ten trong các tỉnh trồng chè với gần 13 ngàn ha, nhưng năng suất lại đạt thấp nhất 55 tạ/ha, giá trị thu nhập đạt 13-14 triệu đồng/ha. Trình độ thâm canh của bà con nông dân vẫn "rất địa phương’', sản xuất quảng canh, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật, thu hái chè không phải bằng tay mà bằng liềm, búp già, búp non thu hái bằng hết... dẫn đến tuổi thọ chè ngắn, năng suất giảm.
Người trồng chè không sống được bằng nghề chè, nhiều hộ có nương chè đem bán và chấp nhận đi làm thêu. Đầu tư cho trồng chè vùng cao những năm qua khá lớn, nhưng chưa làm cho nhân dân nhận thức đúng đắn về chương trình trồng chè vùng cao, việc tổ chức trồng, bảo vệ, chăm sóc chưa tốt, dẫn đến hiệu quả thấp.
Trong chế biến chưa có quy hoạch cụ thể và chế biến chè cho phù hợp với từng vùng nguyên liệu. Các nhà máy thì nhiều, nhưng dây chuyền sản xuất lạc hậu, không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Tình trạng tranh mua, tranh bán chè búp tươi diễn ra phổ biến, nông dân thu hái chè không bảo đảm kỹ thuật, chất lượng chè búp tươi đưa vào chế biến kém. Sản phẩm chè của các doanh nghiệp đơn điệu, chủ yếu là chè đen sơ chế, phẩm cấp thấp và chưa xây dựng được chiến lược sản phẩm lâu dài.
Tiềm lực tài chính các doanh nghiệp yếu, không có điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ nên hiệu quả kinh tế thấp và chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm. Từ những yếu tố đó, sản phẩm làm ra đều phải bán qua khâu trung gian, giá thành không chỉ thấp mà lại bị ép giá. Những năm trước đây, mỗi năm ngành chè còn đóng góp vài triệu USD vào giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, nhưng cả năm 2007, con số xuất khẩu chỉ đạt vài ngàn USD.
Trong khi đó gần như toàn bộ các sản phẩm chè Yên Bái đều tiêu thụ ở ngoài nước, điều này các doanh nghiệp, nhà sản xuất biết cả. Với sản lượng 18-20 ngàn tấn chè thành phẩm sản xuất, chế biến mỗi năm, nếu xuất khẩu trực tiếp hết thì cũng thu về 18-20 triệu USD. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm, bà con nông dân, doanh nghiệp sản xuất, thu hái trên 70 ngàn tấn, chế biến trên 12 ngàn tấn chè thành phẩm và không xuất khẩu trực tiếp được một USD.
Buôn không có bạn…
Câu hỏi tại sao ngành chè Yên Bái không phát triển mạnh được? Mới nghe tưởng như khó lý giải, nhưng với các nhà quản lý, doanh nghiệp chè có lẽ biết cả, bởi đơn giản sản xuất chè mạnh ai người ấy làm. Nông dân làm chè chưa sống, chưa làm giầu bằng nghề trồng chè, nên đa phần không gắn bó với cây chè. Doanh nghiệp sản xuất chè đa phần là làm ăn theo kiểu “chụp giật”, không có chiến lược sản xuất, đầu tư lâu dài, một phần vẫn chưa thích ứng với cơ chế thị trường.
Số ít doanh nghiệp vẫn còn có tư tưởng trông vào sự bảo trợ của nhà nước, từ đầu tư vùng nguyên liệu, đổi mới dây chuyền đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Một minh chứng rõ nhất là khi ngành ngân hàng thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất cho vay hầu hết các doanh nghiệp chè trên địa bàn lại “điệp khúc” thiếu vốn sản xuất. Để cứu vùng chè tỉnh lại huy động các ngân hàng trên địa bàn vào cuộc và rót trên 30 tỷ đồng cho doanh nghiệp vay.
Có nhiều người cho rằng đó chỉ là cái “cớ” để doanh nghiệp ép giá thu mua nguyên liệu và chiếm dụng vốn của người trồng chè. Trong thương trường có câu “buôn có bạn, bán có phường”, nhưng với các doanh nghiệp chè Yên Bái lại ngược lại, mạnh ai người ấy làm. Thu mua nguyên liệu không cần phẩm cấp, già, non mua tất, miễn sao giá rẻ, mua được nhiều.
Trong bán sản phẩm cũng vậy, giá cả thoải mái, cứ doanh nghiệp thấy lãi, thậm chí cần vốn để quay vòng chấp nhận bán lỗ một vài giá cũng không sao. Khách hàng đã quá quen với các doanh nghiệp của ta vốn đã ít rồi, nay giá cả lại lung tung beng, thế là tha hồ mà ép giá. Giá bán thấp đương nhiên phản ứng theo dây chuyền và thế là người nông dân làm chè, doanh nghiệp chè cứ mãi trong cái vòng luẩn quẩn, chậm phát triển là điều dễ hiểu.
Bán phải có phường
Có thể nói, trong những năm qua tỉnh Yên Bái đã có những cơ chế, chính sách thông thoáng, thậm chí hơi “đặc khu” cho sản xuất kinh doanh chè, đó là điều kiện tốt để ngành chè phát triển. Không chỉ có vậy, mà các doanh nghiệp chè hầu hết là không phải đầu tư một đồng nào cho vùng nguyên liệu, cơ sở hạ tầng nông thôn. Với những thuận lợi đó, sao sản xuất kinh doanh chè không phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có. Như đã nói ở trên, việc phát triển, sản xuất của các doanh nghiệp đơn lẻ, lấy khai thác, hiệu quả trước mắt là chính, chứ không nghĩ đến lâu dài, từ sản xuất đến bán sản phẩm.
Để ngành chè phát triển, các doanh nghiệp chè phải tận tâm, tận lực với ngành chè, từ khâu nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài việc đầu tư đổi mới công nghệ, sản xuất sản phẩm đáp ứng thị trường, các doanh nghiệp hãy liên doanh, liên kết tạo thành một “tập đoàn” chè, hay hiệp hội chè để cùng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Trong thu mua phải mua đúng phẩm cấp, đúng giá, tương xứng chất lượng sản phẩm, cùng nhau xây dựng thương hiệu chè Yên Bái đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Có làm được như vậy mới hy vọng sản xuất, kinh doanh chè phát triển và thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Thanh Phúc
Các tin khác

YBĐT-Ngày 27/10/2008 đồng chí Hoàng Xuân Lộc-Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái đã có buổi làm việc với ngành Nông nghiệp và pháp triển nông thôn để đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và xây dựng phương hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân những năm tiếp theo.

Lần đầu tiên trong năm, chỉ số giá tiêu dùng CPI đã giảm với con số tuy còn rất khiêm tốn, chỉ mới ở mức 0,19%. Tuy nhiên, giá nhiều mặt hàng vẫn chưa chịu giảm.

YBĐT - Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số nói chung và huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) nói riêng là thiếu đất sản xuất, đất ở.

YBĐT - Nhà máy xi măng của Công ty cổ phần Xi măng Yên Bình (Yên Bái) như một con tầu công nghiệp neo đỗ bên hồ Thác Bà. Những khó khăn sau khi đưa nhà máy vào vận hành đã qua đi, những ngày này, dây chuyền sản xuất xi măng lò quay công suất 910.000 tấn/năm đang vận hành hết tốc lực để cung cấp đủ xi măng cho các công trình trọng điểm.