Thay đổi tư duy phát triển rừng
Trong những ngày đầu xuân Ất Tỵ, chúng tôi có dịp cùng đoàn công tác của huyện Yên Bình tham gia trồng rừng đầu xuân trên địa bàn. Đi giữa mênh mông, trùng điệp núi đồi, những rừng cây đang vươn mình trong gió xuân như báo hiệu một mùa ấm no đang về… Đón chúng tôi trong căn nhà khang trang ngay dưới chân đồi gỗ lớn của gia đình, anh Lê Mai Hiền ở xã Tân Nguyên kể cho chúng tôi nghe về một thời khó khăn ở quê mình.
Trước kia, anh mưu sinh bằng nghề buôn gỗ, nhưng rồi một quyết định táo bạo vào năm 2000 đã thay đổi cả cuộc đời anh. Khi đó, anh đã cắm sổ đỏ vay mượn ngân hàng hàng trăm triệu đồng để mua lại trang trại từ người dân trong xã. Có đất, anh cùng gia đình bắt tay ngay vào trồng rừng, làm quên ngày tháng, từ sáng đến tối mịt và lúc đó chỉ có rừng cây làm bạn.
Cứ thế, từng ngày, từng tháng, anh Hiền kiên trì vun trồng từng nhánh cây. Những ngọn đồi cỏ dại ngày trước giờ đây đã phủ kín keo, bồ đề, bạch đàn. Ở những chân đồi thấp, gia đình trồng lúa, sắn để có nguồn thu ngắn hạn; các khe nước được ngăn thành ao cá; trên đồi thì nuôi trâu, bò, gà… Nhờ sự nhẫn nại ấy, vài năm sau gia đình anh dần có cuộc sống ổn định và quan trọng hơn là anh bắt đầu mơ về những cánh rừng gỗ lớn bền vững.
Giờ đây, trên 70 ha rừng mà anh Hiền sở hữu không chỉ là nguồn kinh tế của gia đình, mà còn là tài sản xanh quý giá. Ngay sau khi khai thác gỗ chu kỳ đầu tiên, vòng vào giống tiếp theo anh chọn trồng các loại cây gỗ lớn như: dổi, lát, gù hương, sưa, chò chỉ và đây là những giống cây có giá trị kinh tế cao, thân thiện với môi trường.
Cũng sở hữu 7 ha rừng, gia đình anh Nghiêm Xuân Thành ở xã Bảo Ái cùng huyện Yên Bình cũng được xem là người tiên phong trồng rừng gỗ lớn trong xã. Với suy nghĩ "Cây rừng càng to thì càng cao giá trị”; do vậy, anh đã làm đủ nghề mưu sinh để nuôi rừng gỗ lớn. Khi hỏi về lợi ích rừng gỗ lớn, anh Thành phân tích bài bản: "Trồng rừng gỗ nhỏ thì chỉ dùng làm gỗ dăm hoặc nguyên liệu giấy.
Giá bán mỗi mét khối được trên một triệu đồng mà cứ hết 5 hoặc 6 năm là phải dốc vốn liếng để đầu tư cho chu kỳ trồng mới. Trong khi đó, trồng cây gỗ lớn để lấy gỗ xẻ phục vụ chế biến thì mình nuôi càng lâu, đường kính thân cây càng lớn càng được giá. Cây có đường kính từ 25 - 30 cm thì cứ 1 ha rừng sản lượng gỗ đạt trên 200 m3 bán với giá khoảng 3 triệu đồng/m3 gỗ đã bỏ túi trên dưới 600 triệu đồng, chưa kể chỉ đầu tư vốn, giống để trồng một lần nên giá trị kinh tế vừa cao hơn vừa góp phần không nhỏ bảo vệ môi trường”.
Lựa chọn các giống cây có giá trị kinh tế cao
Với trên 433.000 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 63%, Yên Bái đang là địa phương có thế mạnh về kinh tế lâm nghiệp. Nhiều năm qua, ngoài việc làm tốt công tác quy hoạch và phân định ranh giới 3 loại rừng, tỉnh còn chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, lựa chọn các giống cây có giá trị kinh tế cao theo hướng đa mục tiêu, quy hoạch vùng trồng rừng tập trung, phù hợp với từng loại rừng và thổ nhưỡng từng địa phương; hỗ trợ người trồng rừng cải thiện chất lượng giống, áp dụng các biện pháp canh tác lâm nghiệp tiên tiến, hình thành cơ chế phát triển lâm nghiệp theo liên kết chuỗi giá trị.
Tỉnh cũng đã triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; vận động và khuyến khích người dân kéo dài chu kỳ khai thác để phát triển rừng cây gỗ lớn, gia tăng sản lượng, chất lượng nguồn gỗ nguyên liệu cung cấp ổn định cho nhà máy chế biến, mang lại nguồn thu ngày càng cao cho người trồng rừng.
Đặc biệt, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, thay thế các loại cây lâm nghiệp hiệu quả kinh tế thấp bằng những loại cây có giá trị kinh tế cao đối với rừng kinh tế. Nhiều loại cây lâm nghiệp kém hiệu quả như bạch đàn, mỡ, bồ đề, chẩu... đã dần được thay thế bằng những loại cây có giá trị kinh tế cao như: quế, tre măng Bát độ, sơn tra, mắc ca, chè Shan tuyết, thảo dược...
Huyện Văn Yên là một ví dụ điển hình. Toàn huyện hiện có trên 90.000 ha đất rừng; trong đó, có 15.300 ha rừng đặc dụng; hơn 15.100 ha rừng phòng hộ và trên 57.000 ha rừng kinh tế. Sau nhiều năm chuyển đổi cơ cấu trồng rừng kinh tế, đến nay, diện tích trồng quế thay thế các cây lâm nghiệp truyền thống trên địa bàn huyện là 52.000 ha, chiếm trên 90% tổng số diện tích trồng rừng kinh tế.
Người dân huyện Văn Yên phát triển mạnh diện tích quế bản địa.
Bí thư Huyện ủy Văn Yên - Hà Đức Anh chia sẻ: quế là loại cây bản địa đa mục tiêu, không chỉ có tác dụng tốt cho môi trường sinh thái, mà còn là cây mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Mỗi năm cây quế cho sản lượng gỗ trên 50.000 m3, 6.000 tấn vỏ khô, 400 tấn tinh dầu. Hiện, quế Văn Yên đã xuất khẩu đi hơn 20 quốc gia trên thế giới, với 33 loại sản phẩm làm ra từ quế, tổng giá trị đạt hơn 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Tương tự như cây quế, cây sơn tra được quy hoạch trồng tập trung tại hai huyện vùng cao Mù Cang Chải và Trạm Tấu. Đến nay, đã hình thành vùng trồng sơn tra tập trung khoảng 15.000 ha, trung bình cho sản lượng gần 5000 tấn quả, mang về thu nhập hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho người trồng. Từ lâu, rừng sơn tra đã trở thành một sản phẩm du lịch, thu hút du khách trong thời gian ra hoa đến khi thu hoạch. Toàn tỉnh hiện có trên 80.000 ha quế, gần 6.000 ha tre Bát độ, hơn 3.500 ha chè Shan tuyết...
Gắn lợi ích thiết thực với rừng
Nhờ thay đổi tư duy phát triển rừng, Yên Bái đang nhân rộng hàng chục mô hình trồng thảo dược dưới tán rừng phòng hộ; trồng bổ sung hàng triệu cây bản địa như: pơ mu, lim xanh, thông mã vĩ, vối thuốc... để nâng cao chất lượng rừng đặc dụng.
Ông Vũ Lê Chung Anh - Chủ tịch UBND huyện Trạm Tấu khẳng định: "Không có lực lượng nào trồng và bảo vệ rừng tốt hơn người dân sở tại. Muốn vậy, phải tạo sinh kế cho họ và họ phải là người được hưởng lợi đầu tiên từ rừng. Hiểu một cách đơn giản, khi rừng nuôi sống con người thì sẽ không ai phá rừng, chính người dân sẽ bảo vệ, trồng rừng hiệu quả nhất”.
Qua thực tiễn cho thấy, phát triển rừng bền vững dựa vào cộng đồng, dựa vào người dân là chủ trương hết sức đúng đắn, hợp lòng dân. Thống kê cho thấy, Yên Bái có diện tích rừng và đất lâm nghiệp đủ điều kiện cung ứng dịch vụ môi trường rừng khoảng 215.000 ha, chia theo 4 lưu vực sông, suối chính trên địa bàn 8 huyện, thị trải rộng trên 104 xã, thị trấn trên toàn tỉnh.
Do vậy, đối tượng được chi trả rất lớn gồm: 409 cộng đồng dân cư thôn, bản nhận khoán với trên 15.500 hộ tham gia bảo vệ rừng và 14 chủ rừng, với tổng số tiền chi trả là 122 tỷ đồng trong năm 2024 từ hơn 90 cơ sở sử dụng dịch vụ môi trường rừng.
Ông Tô Xuân Quý - Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Yên Bái cho biết: Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép tại các khu vực rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đã giảm mạnh. Người dân hiểu rõ được lợi ích từ việc nâng cao chất lượng rừng. Từ đó, tạo mối liên kết, cộng đồng trách nhiệm của chủ rừng với đơn vị sử dụng môi trường rừng, góp phần giảm ngân sách Nhà nước cho phát triển rừng. Trong những năm gần đây, Yên Bái xây dựng thành công nhiều khu vực trồng dược liệu tập trung dưới tán rừng qua cơ chế liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp chế biến dược phẩm, được ứng dụng kỹ thuật tiến tiến từ khâu trồng, chăm sóc, thu hái và bảo quản theo tiêu chuẩn GACP - WHO. Điển hình là các loại thảo dược như: thảo quả, lá khôi tía, đương quy, hoài sơn, sâm bố chính, sa nhân, sả, gừng, nghệ...
Dưới góc độ doanh nghiệp chế biến, ông Đỗ Bảo Long, Giám đốc Công ty cổ phần Dược phẩm Yên Bái chia sẻ: Mô hình liên kết để phát triển cây dược liệu dưới tán rừng ở Yên Bái đã tạo việc làm, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các bên tham gia, nâng cao đời sống cho người dân trồng rừng. Đồng thời, gắn bảo vệ và phát triển rừng với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn nguồn cây dược liệu quý hiếm.
Hiện nay, công tác quản lý, bảo vệ rừng không còn là trách nhiệm riêng của ngành kiểm lâm. Việc phát triển bền vững các loại rừng - kinh tế "xanh” ở Yên Bái được gắn chặt với cuộc sống của người dân sở tại; nhiều cơ chế, chính sách ưu việt không chỉ nâng cao chất lượng, tăng diện tích rừng mà còn mang lại nhiều lợi ích trực tiếp, thiết thực cho người trồng rừng.
Q.T