1. Đồng nhiễm HIV/viêm gan C sễ rút ngắn tuổi thọ
Đối với những người đồng nhiễm HIV/viêm gan C, có thể làm tăng nhanh quá trình tiến triển đến xơ gan so với người không nhiễm HIV. Ngay cả ở những người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C đã được điều trị thuốc ARV và có tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế, thì nguy cơ xơ gan vẫn cao hơn ở người không nhiễm HIV, PGS.TS.Trịnh Thị Ngọc - Phó Chủ tịch hội Gan mật Việt Nam - nguyên Chủ nhiệm khoa Truyền nhiễm BV Bạch Mai cho biết.
Theo kết quả giám sát được Bộ Y tế thực hiện từ năm 2018, tỉ lệ nhiễm virus viêm gan C mạn tính ở người nhiễm HIV khoảng 22-44%; ở người tiêm chích ma túy từ 40-90%. Hiện Việt Nam có khoảng hơn 200.000 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có 175.400 người được điều trị ARV (chiếm 76%). Trong những người đồng nhiễm HIV/viêm gan C có xơ gan giai đoạn đầu, tỉ lệ sống được 3 năm là 87%, nhưng nếu có xơ gan giai đoạn cuối, tỉ lệ sống được 2 năm chỉ còn 50%.
Virus viêm gan C.
Mặc dù tỷ lệ tử vong ở người nhiễm HIV đã giảm đáng kể nhờ việc mở rộng điều trị thuốc ARV, nhưng tỷ lệ tử vong ở nhóm người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C không giảm, do người bệnh gặp nhiều rào cản trong tiếp cận với các dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C.
2. Điều trị viêm gan C tốt sẽ giảm nguy cơ tử vong
Viêm gan C có diễn tiến âm thầm. Ở giai đoạn đầu hầu như không có triệu chứng gì đặc biệt. Đến khi gan bị tổn thương nghiêm trọng do virus viêm gan C thì mới có các hiểu hiện cụ thể.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus ủ bệnh khoảng 12 - 40 ngày rồi nhân lên phá hủy tế bào gan. Có khoảng 70% người bị viêm gan C có thể không có triệu chứng gì, số còn lại sẽ chuyển sang viêm gan mạn tính.
Viêm gan C nếu phát hiện sớm có thể chữa khỏi bằng thuốc kháng virus, nhưng nếu không được điều trị đúng và kịp thời có thể dẫn đến xơ gan, ung thư gan. Hiện nay nhờ tiến bộ của khoa học, nhiều loại thuốc mới điều trị viêm gan C đã được cấp phép với hiệu quả cao và ít tác dụng phụ.
Đối với bệnh nhân tuân thủ điều trị và đáp ứng thuốc tốt thì thời gian điều trị được rút ngắn chỉ còn khoảng 3 tháng. Chính vì thế, Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo các quốc gia cần tăng cường điều trị viêm gan C trên người bệnh đồng nhiễm HIV để duy trì thành quả của chương trình điều trị HIV.
Theo đó, ngoài việc xét nghiệm tầm soát viêm gan C định kỳ hàng năm để được phát hiện và điều trị sớm thì người được chẩn đoán nhiễm virus viêm gan C cần đến các cơ sở y tế có khoa truyền nhiễm để được tư vấn và điều trị triệt để càng sớm càng tốt. Việc điều trị viêm gan C cho các bệnh nhân đồng nhiễm HIV đã giúp cho họ sống vui khỏe, tiếp tục ổn định điều trị ARV.
3. Những khó khăn trong điều trị
Hiện chưa có vaccine để chủ động bảo vệ cơ thể chống HIV/viêm gan C. Cách duy nhất để ngăn ngừa bệnh là tránh các hành vi nguy cơ lây nhiễm bệnh và thực hiện xét nghiệm viêm gan C định kỳ mỗi năm 1 lần để phát hiện sớm căn bệnh này.
Theo PGS.TS.Trịnh Thị Ngọc, khó khăn trong điều trị đồng nhiễm vius HIV với một virus khác như viêm gan C hoặc viêm gan B đều là cấp số nhân. Nhưng khi mắc viêm gan C, thì chúng ta có thể điều trị dứt điểm nếu được phát hiện và điều trị sớm đúng cách.
Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn xét nghiệm viêm gan C từ năm 2020 để cán bộ y tế ở tuyến huyện có thể thực hiện sàng lọc, xét nghiệm viêm gan C. Ngoài ra, các hướng dẫn điều trị cũng liên tục được cập nhật, trong đó có phần hướng dẫn chẩn đoán điều trị đồng nhiễm HIV/viêm gan C.
Tuy nhiên, BHYT chỉ thanh toán cho các trường hợp điều trị viêm gan C từ tuyến tỉnh trở lên. Đây cũng là một rào cản rất lớn đối với bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan C/HIV.
Theo thông tin từ Cục Phòng chống HIV/AIDS, Việt Nam đã và đang triển khai các biện pháp nhằm mở rộng dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C cho người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C. Từ cuối năm 2018, chi phí thuốc DAA điều trị viêm gan C đã bắt đầu được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả với tỉ lệ thanh toán bảo hiểm là 50%.
Từ năm 2021, thuốc điều trị viêm gan C bằng phác đồ sofosbuvir và daclatasvi cũng được Quỹ toàn cầu phòng, chống AIDS, lao và sốt rét hỗ trợ miễn phí. Theo đó đã có khoảng 16.000 người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C được điều trị tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS của các tỉnh/thành phố trên cả nước. Người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C được theo dõi đồng thời đối với điều trị thuốc ARV và viêm gan C ngay tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS từ tuyến quận/huyện trở lên.
Mặc dù đã có những dấu hiệu tích cực cho việc điều trị viêm gan C cho người bệnh đồng nhiễm, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều thách thức trong việc tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C đối với người bệnh.
Phần lớn xét nghiệm chẩn đoán viêm gan C chỉ được thực hiện tại các bệnh viện tuyến tỉnh trở lên, gây khó khăn cho nhiều bệnh nhân trong việc tiếp cận với xét nghiệm chẩn đoán bệnh. Trong khi giá xét nghiệm còn cao, mức hưởng từ quỹ Bảo hiểm y tế đối với thuốc kháng virus trực tiếp cho bệnh nhân điều trị còn thấp, cũng là một cản trở cho việc tiếp cận điều trị của người bệnh. Đây là những rào cản ảnh hưởng đến việc tiếp cận chẩn đoán và điều trị viêm gan C của người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C nói riêng và các bệnh nhân nhiễm viêm gan C nói chung.
Ngoài ra, vấn đề người bệnh tuân thủ điều trị và dự phòng tái nhiễm, tuân thủ xét nghiệm định kỳ cho người đã được chữa khỏi cũng là những vấn đề cần quan tâm trong công tác điều trị...
(Theo SKĐS)