Do tập quán và quan niệm lạc hậu, trước đây, ở các bản làng vùng cao, hầu hết phụ nữ dân tộc Mông không đi học hoặc bỏ học từ rất sớm. Mù chữ, tái mù chữ cùng nạn tảo hôn khiến nhiều người phụ nữ thiệt thòi, quanh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mà cái nghèo, cái đói vẫn đeo đẳng, trĩu nặng cuộc đời họ. Nhưng với phụ nữ người Mông ở thôn Khe Táu, xã Phong Dụ Thượng, huyện Văn Yên (Yên Bái) thì lại khác...
Vượt qua hủ tục
Chúng tôi vào thôn Khe Táu sau cơn mưa đầu hạ. Từ thị trấn Mậu A tới xã Phong Dụ Thượng gần 50 cây số nhưng từ trung tâm xã vào Khe Táu mới là thử thách với người và phương tiện. Hơn 10 cây số phải đi bằng xe máy trên con đường đất cheo leo, một bên là vách núi dựng đứng, bên kia vực sâu thăm thẳm, nhiều chỗ vách núi bị đổ sập, những tảng đá nặng cả mấy chục tấn nằm chềnh ềnh ven đường... Nguy hiểm là vậy nhưng đây là cung đường quen thuộc của các thầy cô giáo Trường Phổ thông Dân tộc bán trú (PTDTBT) TH Phong Dụ Thượng từ nhiều tháng nay khi đảm nhận "sứ mệnh" dạy chữ cho trên 20 phụ nữ dân tộc Mông trong thôn.
Như thường lệ, tối nay khi ông mặt trời vừa xuống núi thì Nhà sinh hoạt cộng đồng
thôn Khe Táu lại rực ánh điện. Bỏ qua tâm lý ngại ngùng, e dè, các "bà học sinh”, "chị học sinh" đồng thanh ê a đánh vần từng con chữ. Dù tiếng phổ thông còn ngọng, phát âm chưa tròn vành, rõ chữ, nhưng mọi người đều mạnh dạn đọc to, đọc đều dưới sự hướng dẫn của hai thầy Triệu Hồng Minh và Nguyễn Quang Thọ. Những đôi tay chai sạn của người phụ nữ Mông vốn chỉ quen cầm cuốc, tra ngô, cấy lúa nay lại vụng về cầm bút để tô từng nét chữ hay xòe ra để làm các phép tính đơn giản. Khó khăn, vất vả là vậy nhưng các anh chị vẫn miệt mài đến lớp. Bởi ở đó có con chữ, có hy vọng và có những người thầy cô tâm huyết.
Tranh thủ giờ nghỉ giải lao, tôi làm quen với chị Sùng Thị Mang. Hơn 40 tuổi, chị Sùng Thị Mang mới bắt đầu đi học cái chữ. Một phần vì điều kiện gia đình khó khăn, phần khác chị lại lấy chồng sớm, cuộc sống quanh năm chỉ gắn bó với ruộng nương đã ngăn bước con đường đến trường. Qua tuyên truyền của chính quyền và hội phụ nữ địa phương, lại được chồng ủng hộ và suy nghĩ muốn biết chữ để phát triển kinh tế đã thôi thúc chị tìm đến lớp học xóa mù chữ. Ban ngày phải đi làm nương, nhưng tối về chị không vắng mặt buổi nào, trời tạnh cũng như mưa chị Mang vẫn miệt mài đến lớp.
Chị Sùng Thị Mang (áo xanh, thứ nhất từ phải sang) cùng các học viên trong lớp say sưa luyện chữ.
Chị chia sẻ: "Mình lớn tuổi rồi, đi học cũng vất vả lắm, học mãi mới nhớ, nhưng mà đến lớp vui vì có nhiều chị em cũng đi học như mình mà học được chữ thì mình đọc được sách báo, mình biết được cách mọi người trồng cây, nuôi con lợn, gà để phát triển kinh tế”.
Chúng tôi chú ý đến một người phụ nữ trẻ địu con, ngồi nắn nót tô từng nét chữ, mồ hôi túa ra trên khuôn mặt đỏ lựng, đó là chị Sùng Thị Bla. Tuổi thơ của chị là những tháng ngày cơ cực, không được đi học vì gia đình quá nghèo.
"Tôi muốn đi học để biết đọc, biết viết, mở mang hiểu biết, có cuộc sống tốt hơn. Khi biết chữ, tôi sẽ đọc được hướng dẫn sử dụng thuốc cho con mỗi khi bị ốm, biết xem hạn dùng các loại thực phẩm, đồ dùng gia đình. Xem những thông tin hướng dẫn hội viên, phụ nữ vay vốn phát triển kinh tế gia đình” - Sùng Thị Bla vui vẻ cho biết.
Theo ông Lương Văn Thu, Chủ tịch UBND xã
Phong Dụ Thượng, hiện nay, xã có 1.378 hộ, 6.495 khẩu, gồm 5 dân tộc, sinh sống tại 8 thôn, trong đó dân tộc Tày, Dao chiếm đa số. Trong số hơn 900 nhân khẩu dân tộc Mông có nhiều phụ nữ không biết chữ. Điều này gây khó khăn trong công tác tuyên truyền, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời khiến chị em rất thiệt thòi về mọi mặt. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều phụ nữ trên các bản làng bị lừa gạt, dụ dỗ, bóc lột sức lao động khi đi làm thuê trái phép, làm gia tăng tình trạng tảo hôn, gia tăng tỷ lệ đói nghèo...
Những "người hùng” cắm bản
Qua thầy Nguyễn Quang Thọ và các cô giáo Trường PTDTBT TH Phong Dụ Thượng, được biết đây là xã có tỷ lệ người không biết chữ, tái mù chữ cao nhất huyện Văn Yên. Thực hiện chương trình xóa mù chữ, cấp ủy, chính quyền địa phương này đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn, các nhà trường mở các lớp xóa mù chữ. Riêng năm 2023, xã đã mở được 3 lớp với 90 học viên (độ tuổi từ 16 - 60) tham gia lớp xoá mù chữ giai đoạn 2 năm 2023, trong đó nhiều chị em đã tham gia các chương trình tiểu học sau xóa mù chữ.
Để vận động phụ nữ đến trường học chữ, cái khó nhất là phải làm thay đổi nếp nghĩ, tư duy của chị em. Phải từng bước xoá bỏ hủ tục lạc hậu và suy nghĩ phụ nữ chỉ có nhiệm vụ sinh con, đi làm nương, chăm sóc chồng con, sống phụ thuộc hoàn toàn vào chồng. Muốn đả thông tư tưởng chị em thì phải thông suốt tư tưởng của các ông chồng. Để nâng cao chất lượng dạy học, địa phương đã chỉ đạo bố trí những giáo viên có kinh nghiệm đến lớp, đặc biệt là những giáo viên bám bản, vừa có kiến thức vừa biết tiếng Mông, hiểu phong tục, tập quán để việc dạy học đạt hiệu quả cao.
Lớp học xóa mù chữ ở thôn Khe Táu.
"Chúng tôi phối hợp với các đoàn thể quần chúng nhất là Chi hội phụ nữ để tiếp cận. Cách thức tuyên truyền phải trực quan, sinh động, ví dụ cụ thể. Mưa dầm thấm lâu, chị em nhìn thấy rõ lợi ích của biết chữ, những người chồng cũng thay đổi quan niệm thì mới cho vợ đến lớp” - thầy Nguyễn Quang Thọ đúc kết.
Anh Tráng A Páo, 51 tuổi, là lớp trưởng vui vẻ tâm sự: "Thấy được ích lợi từ việc học con chữ nên cả hai vợ chồng mình đều đi học. Để đến được lớp, 2 vợ mình phải lên nương từ sớm, về nhà sắp xếp công việc mới đến lớp được. Bây giờ mình đã biết đọc, biết viết, mình đang học tính toán để ra chợ mua bán dễ dàng hơn”.
Nhờ biết chữ, biết tính, anh Tráng A Páo đã mở thêm gian hàng bán những thực phẩm thiết yếu cho bà con dân bản.
Từ được vận động đi học thành tư duy muốn đi học
Chuyển biến lớn nhất ở các lớp xóa mù chữ là đổi thay từ việc chị em được vận động đi học thành tư duy muốn đi học. Bởi thế, đa phần chị em phụ nữ dù bận rộn với công việc, song họ đã cố gắng sắp xếp thời gian để đến lớp duy trì, đảm bảo sĩ số và chất lượng học tập. Do biết chữ nên nhận thức của người dân được nâng lên, bản Khe Táu năm nay không còn hộ đói, 100% trẻ em trong độ tuổi đều đến trường, các hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang được xóa bỏ hoàn toàn, đồng bào Mông nơi đây không chỉ biết canh tác lúa nước mà còn thâm canh 2 vụ.
Đặc biệt nhờ biết con chữ, người dân đã tìm hiểu các thông tin văn hóa, biết tận dụng, khai thác tiềm năng từ ruộng bậc thang để làm du lịch. Cuộc sống chưa phải đã hết khó khăn nhưng có thể nói đó là một cuộc "cách mạng” lớn về nhận thức, tư duy để đổi thay cuộc sống của đồng bào Mông nơi này.
Ông Lù A Cháng - Trưởng bản Khe Táu nói: "Sau thành công 2 lớp học đầu tiên, bây giờ chỉ cần thông báo có lớp học chữ là nhiều chị em trong bản đã đăng ký tham gia. Người trước đã học xong về biết áp dụng vào chăn nuôi tại gia đình có hiệu quả nên nhiều chị em cũng đi học theo”.
Không chỉ các lớp xoá mù chữ ở Khe Táu, bây giờ nhiều thôn, bản ở xã
Phong Dụ Thượng đã triển khai mô hình này, như các thôn Cao Sơn, Thượng Sơn, Khe Dẹt, Khe Mạng... Trên thực tế những lớp học xóa mù chữ ở huyện vùng cao Phong Dụ Thượng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Việc tổ chức các lớp học xóa mù chữ vừa giúp nâng cao dân trí, vừa là hành trang để người dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo sự đổi thay cho mảnh đất vùng cao này. Có được điều đó, công đầu thuộc về các thầy cô giáo - những người hùng cắm bản.
Qua tìm hiểu được biết, tất cả thầy cô như thầy Nguyễn Quang Thọ, Triệu Hồng Minh, Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Thi; các cô giáo Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thuỳ Linh,… đều là những giáo viên dạy giỏi, có kinh nghiệm công tác ở thị trấn Mậu A, nhiều người còn có chồng con tận ngoài thành phố Yên Bái, nhưng họ đều gác tình riêng, lặn lội "3 cùng”, mang cái chữ, ánh sáng kiến thức đến cho bà con người dân tộc thiểu số.
Chính nhờ sự nỗ lực không mệt mỏi của các thầy cô mà chị em phụ nữ dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng đã dũng cảm dám vượt qua các hủ tục, vượt qua những mặc cảm, tự ti, đi học chữ, vượt qua những định kiến để vươn lên làm chủ số phận, làm chủ cuộc đời.
Võ Thị Phương Bắc
(Trường Tiểu học thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên)